左江道臺公偶中興吟

固知字小聖朝寬,
要使彤弓掛月閒。
下國一心顒北闕,
微臣七渡叩南關。
海函直出尋常外,
天照渾如咫尺間。
今日有心同桼雨,
鴻恩永勒寳林山。

 

Tả Giang đạo đài công ngẫu trung hứng ngâm

Cố tri tự tiểu thánh triều khoan,
Yêu sứ đồng cung quải nguyệt nhàn.
Hạ quốc nhất tâm ngung Bắc khuyết,
Vi thần thất độ khấu Nam quan.
Hải hàm trực xuất tầm thường ngoại,
Thiên chiếu hồn như chỉ xích gian.
Kim nhật hữu tâm đồng tất vũ,
Hồng ân vĩnh lặc Bảo Lâm san.

 

Dịch nghĩa

Vẫn biết rằng thánh triều rộng rãi nuôi nấng kẻ bé nhỏ,
Sứ thần như chiếc cung đỏ treo mặt trăng lúc nhàn nhã.
Hạ quốc một lòng thành tâm quay về triều đình phương bắc,
Kẻ bề tôi bé nhỏ phải bảy lần gõ cửa Nam Quan.
Lượng như biển nên dung chứa được sự tầm thường,
Thiên tử chiếu xuống gần trong gang tấc.
Hôm nay có lòng giống như keo sơn,
Sẽ mãi mãi ghi tạc ơn lớn vào núi Bảo Lâm.


Lạc khoản: “Thị Lưu Châu các” 示劉州閣 (Ở gác Lưu Châu).

Năm 1789, Vũ Huy Tấn được cử làm phó sứ sang nhà Thanh mừng sinh nhật vua Càn Long. Đây là bài thơ ông làm khi uống rượu với Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp ở Nam Quan trên hành trình đi sứ.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]