Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Vũ Đình Liên
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Trang trong tổng số 1 trang (9 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi người xứ đoài ngày 11/06/2007 08:13
Có 1 người thích
ÔNG ĐỒ là một bào thơ hay rất nhiều người yêu thích, viết về các ông thầy dạy chữ Hán viết thư pháp Hán ngữ, thế thì sao không dịch bài này ra Hán ngữ nhỉ.Máy cả bạn phải có fong hán thì mới đọc được chữ HÁN .
LÃO TÚ TÀI
Niên niên đào hoa khai
Tổng kiến lão tú tài
Truy nghiễn hồng tiên bãi
Thông cù nhân vãng lai
Đa thiểu thị tự giả
Trách trách tiễn châu ky
Xảo bút nhất huy tựu
Long vũ nhi phụng phi
Lãnh lạc niên phục niên
Cố khách hà mang nhiên
Hồng tiên bi sắc thấn
Truy nghiễn sầu mặc kiên
Tú tài do tại ti
Lộ quá hữu thùy tri
Tiên thượng hoàng diệp lạc
Thiên biên tế vũ phi
Kim niên đào hựu tân
Bất kiến cựu thời nhân
Thương nhiên không trướng vọng
Yên tai vạn cổ hồn.
老 秀 才
年 年 桃 花 開
總 見 老 秀 才
追 硯 紅 箋 擺
通 衢 人 往 來
多 少 恃字者
嘖嘖 羨 珠 機
巧 筆 壹 揮 就
龍 舞 而 鳳 飛
冷 落 年 復 年
僱 客 何 茫 然
紅 箋 悲 色 矧
追 跰 愁 墨 堅
秀 才猶 在斯
路 過 有 誰 知
箋 上 黄 葉 落
天 邊 細 雨 飛
今 年 桃 又新
不 見 舊 時 人
傷然 空 悵惘
煙 災萬 古 魂
ÔNG ĐỒ
Vũ Đình Liên
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phụng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
Bài này mình đã đăng ơ bên thuhoavietnam được một số bạn sửa giúp cho hoàn chỉnh , mong mọi người góp ý kiến .
Gửi bởi tranngocdong84 ngày 17/03/2008 10:42
Bài sưu tầm của tôi:
桃花每年開
再見老徒哀
挑墨和紅紙
邊舖人往來
幾多人借寫
嘖嘖譽才之
妙手絕輝筆
似鳳舞龍飛
每年孤客視
人借左何知
紅紙煩色淡
淤硯愁墨悲
徒翁坐如此
過路無誰知
笺上黃葉樂
空中細雨飛
桃花今又開
不見舊徒來
某人千古者
魂在何虝埋
Gửi bởi Khoi Dinh Bang ngày 16/02/2011 16:45
Có 1 người thích
ÔNG ĐỒ TÂN BIÊN
(Nhớ : Nhà thơ Vũ Đình Liên)
---------
Sắp tết thời "mở cửa"
Mấy "Ông Đồ tân biên"
Bày mực màu, giấy dó
Sân Văn Miếu kiếm tiền
- Nào Hán tự phồn thể
Quốc ngữ "ngoáy" tài hoa
Vốn liếng "tam thiên tự"
Múa bút "nảy" Dollar
Không ít người "thuê viết"
Chữ "Lạ" ngời Villa
-Ngữ nghĩa đâu cần biết
Đủ "sang" khoe "con Nhà"...
Đồ trẻ nay ít chữ
Lại xoay được tiền nhiều
- Thương Đồ già xưa cũ
Hồn dạt cõi đói nghèo !
Mỗi năm xuân với tết
Thư pháp "nhái" phun mưa
Vương Hi Chi sống lại (1)
Đến xem phải chào thua.
-(1) Vương Hi Chi (303-361) nhà thư pháp đời Đông Tấn bên Tàu xưa nổi tiếng với "Lan đình tự".
Hà Nội, tết Tân Mão 2011
Nguyễn Khôi
(Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội)
Gửi bởi Trần Dân An ngày 28/04/2011 20:00
Mổi năm hoa mai nở
Lại thấy nội tôi viết
Câu đối nôm năm mới
Dành tặng cho cả nhà
cÂU đối nôm thư pháp
Chúc cả nhà bình an
Mừng đất nước yên bình
Đón tết đến xuân sang
Chiết áo dài khăn đóng
Bên giấy đỏ mực tàu
Ngồi viết câu đối mới
Cho cà nhà mừng xuân
Năm nay ông lại viết
Như nhửng cụ đổ xưa
Khoảng vài chục năm nửa
Ai thấy nhửng cụ đổ
2011
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:49
Còn duyên kẻ đón người đưaKhông hiểu sao, đến với bài thơ ông đồ của Vũ Đình Liên tôi lại bị ám ảnh đến day dứt bởi câu hát xa xôi vùng quan họ. Nhưng câu chuyện còn duyên, hết duyên ở đây lại là chuyện khác, chuyện còn và mất của một lớp người một thời đã qua đi không trờ lợi, thông qua hình tượng trung tâm: ông đồ, nói như chính tác giả thì đó là di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời tàn.
Hết duyên đi sớm, về trưa mặc lòng.
Mỗi năm hoa đào nởThời gian được tính bằng hoa đào nở y tín hiệu báo xuân, sắc màu được dệt nên bởi sắc đào tươi thắm, giấy đỏ rực rỡ, nhịp sống được tính bằng phố đông người qua, tình cảm của người đời được biểu hiện bằng hình ảnh: Bao nhiều người thuê viết, tấm tắc ngợi khen tài.
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”.
Hoa tay thảo những nétHoa đào đến đây đã nhường chỗ cho hoa tay y bàn tay tài hoa của ông đồ đưa đến đâu mà như gấm hoa nở ra đến đó. Nét chữ từ bàn tay như có phép tiên của ông được so sánh như phượng múa rồng bay. Đây là hình ảnh so sánh đẹp, giàu giá trị tạo hình, nét thăng hoa trong ngôn ngữ của Vũ Đình Liên gợi tả nét chữ mềm mại mà linh thiêng, phóng khoáng mà cao nhã, có hồn như phượng múa, rồng bay. Nét chữ ấy dường như cũng chấp chới bay lên giữa hào quang của trời xuân, của sắc đào tươi thắm. Đây là một nét vẽ đẹp, ngợi ca ông đồ, một tài năng nghệ thuật.
Như phượng múa, rồng bay.
Nhưng mỗi năm, mỗi vắngGóc nhìn thứ hai, ông đồ – người sinh bất phùng thời, lúc hết duyên.
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm!
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy!
Ngoài giời mưa bụi bay.
Giấy đỏ buồn không thắmGiấy đỏ, nghiên mực, hành trang gắn liền với kẻ sĩ trên hành trình sáng tạo ra cái đẹp nhưng giờ đây cũng lặng lẽ, ủ ê trong nỗi buồn ế khách của ông đồ.
Mực đọng trong nghiên sầu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn, cảnh cũng buồn theo. Nỗi buồn của ông đồ không chỉ chiếu lên nghiên mực, giấy đỏ mà còn lan toả, mênh mang khắp không gian, khiến bức tranh xuân năm ấy mang gam màu xám lạnh, u buồn:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Lá vàng rơi trên giấy!Lá vàng rơi không nghe tiếng, mưa bụi bay không ướt áo ai, mà nghe như có từng thu chết, từng thu chết cuốn ra đi theo hình bóng một lớp người.
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,Năm nay đào lại nở mùa xuân tuần hoàn trở lại hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ nhưng không thấy ồng đồ xưa. Cảnh vẫn như cũ nhưng người dã không còn.
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Những người muôn năm cũÔng đồ không còn nhưng hồn có nghĩa là linh hồn ông vẫn còn phảng phất đâu đây. Hồn, cách gọi đến chính xác lạ lùng những gì đã qua không thể mất, hồn là bất tử vì thác là thể phách, còn là tinh anh. Hồn có lẽ cũng cổ thể hiểu là vẻ đẹp tâm hồn Việt, văn hoá Việt chỉ có thăng trầm chứ không bao giờ mất.
Hồn ở đâu bây giờ?
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:50
“Thơ là ảnh, là nhân ảnh… Từ một cái cụ thể hữu hình nổ thức dây cái vô hình bao la… Từ một cái điểm nhất định mà nó mở ra được một cái diện không gian và thời gian trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp…” (Nguyễn Tuân)
Đến với hai câu thơ:
Giấy đỏ buồn không thắm;Trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, hẳn người đọc thấy day dứt mãi bởi một tấm lòng sứ điệp.
Mực đọng trong nghiên sầu…
Nhưng mỗi năm mỗi vắngVẫn là bức tranh xuân, những cảnh tượng sao vắng vẻ:
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu…
Nhưng mỗi năm mỗi vắngHai câu thơ:
Người thuê viết nay đâu…
Giấy đỏ buồn không thắm;Âm điệu như trùng xuống, lắng đọng nỗi niềm. Chữ sầu đứng cuối câu như hòn đá rơi xuống, đè nặng tâm hồn. Cùng với công cuộc đô thị hoá dữ dằn của xã hội Việt Nam dưới ách thực dân phong kiến, chữ Nho trở thành món hàng không ai chuộng nữa, trong xu thế không thể cưỡng lại ấy tình cảnh ông đồ trở nên ngao ngán, đáng thương: Nào có ra gì cái chữ Nho. Không có người thuê viết, tức là không có người thích thú thưởng thức văn hay, chữ tốt, giấy mực của ông đồ trở nên bẽ bàng, buồn tủi, giấy buồn mực sầu.
Mực đọng trong nghiên sầu…
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:50
Ông đồ, một hình ảnh rất quen thuộc trong xã hội Việt Nam thời xưa. Đó chính là biểu tượng của những nhà nho không đỗ đạt làm quan, thường đi dạy học. Sau khi chế độ khoa cử của Nho học bị bãi bỏ, ông đồ bị gạt ra ngoài xã hội đành phải đi viết chữ thuê trong những ngày tết đến. Thời gian dần trôi, sự vật đổi thay, ông đồ cũng vắng bóng dần đến một chỉ còn là cái di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn. Với ngòi bút tài hoa, sắc sảo Vũ Đình Liên đã bộ lộ niềm thương cảm của mình trước ngày tàn của nền Nho học qua bài thơ Ông đồ.
Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh “ông đồ” quen thuộc.
Mỗi năm hoa đào nởTrong không khí tươi vui, nhộn nhịp của ngày Tết, ông đồ già với mực tàu, giấy đỏ lại ngồi bên góc đường để chờ có người đến thuê viết những câu thơ, câu đối. Xưa nay người ta cho chữ, chứ có ai bán chữ bao giờ. Vậy mà giờ đây ông đồ phải đem chữ ra bán. Giọng thơ trầm trầm tạo không khí buồn buồn làm cho lòng người xao xuyến. Nhưng lúc này, ông đồ cũng còn an ủi lắm bởi mọi người còn thích nét chữ hình tượng ấy để trang trí trong những ngày Tết. Cho nên đã có:
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bèn phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viếtVới nghệ thuật so sánh tài tình, nhà thơ đã khái quát lên được sự khéo léo, tài hoa trên nét chữ của ông đồ. Những nét thảo ấy cứ như phượng múa rồng bay. Nó đẹp ở màu sắc lẫn đường nét. Mọi người ai cùng tấm tắc ngợi khen tài. Lúc ấy, ai cũng thích trong nhà có câu đối đỏ để làm đẹp thêm trong những ngày xuân mới. Nhưng rồi nền văn hoá phương Tây du nhập, sở thích của mọi người cũng dần thay đổi. Những người thích nét chữ kia thưa dần, thưa dần và ông đồ từ từ bị lãng quên.
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắngÔng đồ giờ như một người nghị sĩ hết được lòng công chúng, như một cô gái lỡ thì:
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu.
Còn duyên kẻ đón người đưaNgười thuê viết nay đâu? Câu hỏi được đặt ra cho ông đồ, cho tác giả lẫn cho người đọc gợi lên một niềm bâng khuâng hoài cảm. Nỗi buồn vui sầu não của ông bắt đầu dâng lên theo thời gian và nó thấm vào cả những vật vô tri vô giác. Tác giả đã khéo léo tài tình khi nhân hoá hình ảnh giấy đỏ và nghiên mực. Những tờ giấy đỏ cứ phải phơi ra đấy, không được ai để ý nên bút lông chấm vào đã đọng lại thành nghiên sầu. Trong cái nghiên sầu đó có sự đọng lại nỗi buồn của ông đồ lẫn tác giả. Đau buồn, tủi nhục nhưng ông vẫn cứ ngồi đấy cố bám víu lấy cuộc đời như muốn kéo thời gian quay lại. Não nề thay nào có ai hay đâu.
Hết duyên đi sớm về trưa một mình
Ông đồ vẫn ngồi đấy,Thật là một sự vô tình đến phũ phàng. Nếu trước đây ông luôn là người tập trung sự chú ý, sự ngưỡng mộ với những lời khen ngợi thì giờ đây chỉ còn lại hình ảnh một ông đồ trơ trọi lạc lõng giữa dòng đời nhộn nhịp. Và trong dòng người tấp nập qua lại ấy, có ai bỗng vô tình nhìn lại để thương xót cho một ông đồ già? Ông vẫn ngồi đấy, lặng im chờ đợi để cuối cùng thì chẳng còn ai đến với ông. Song, không hẳn thế, trong hàng loạt người đã quên kia còn có một người nhớ và quay lại thương xót cất lên hai câu thơ thể hiện niềm thương cảm.
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
Lá vàng rơi trên giấyChiếc lá vàng còn sót lại cũng bị cơn gió thổi lìa cành, đậu trên mặt giấy. Nó nằm đấy như chấm dứt sự sinh sôi. Ông đồ ngồi trầm ngâm đã không buồn nhặt. Cộng hưởng với nỗi niềm của ông còn có cơn mưa bụi của đất trời. Hình ảnh tả thực nhưng chất chứa nhiều tâm trạng. Mưa bay ngoài trời, mưa trong lòng người. Câu thơ tả cảnh hay tả tình? Bước cuối cùng của những ngày tàn buồn bã xiết bao! Lời thơ tuy nhẹ nhàng nhưng thấm thìa kết hợp giọng thơ trầm buồn, u ẩn đã gây cho người đọc nỗi buồn khó tả.
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay hoa đào nở,Hình ảnh ông đồ đã thật sự nhoà đi theo thời gian trong ký ức của con người. Tết đến, không thấy ông đồ xưa, trên đường phố vẫn tấp nập người qua lại nhưng, ông đồ với mực tàu giấy đỏ đã vắng bóng rồi. Hình ảnh ông đồ đã đi vào quá khứ. Trong sự khắc nghiệt của thời gian con tạo xoay vần, vật đổi sao dời, ông đồ cố giơ đôi tay gầy guộc để bám lấy cuộc đời. Nhưng một con én không tạo được mùa xuân thì một ông đồ già cũng không làm sao xoay lại nên cảnh đời. Ông đã không còn kiên nhẫn để bám lấy cuộc sống phũ phàng ấy nữa. Ông ra di để lại sau lưng quá khứ huy hoàng của một thời vang bóng. Bài thơ kết thúc là lời tự vấn của nhà thơ với nỗi bâng khuâng thương tiếc ngậm ngùi.
Không thấy ông đồ xưa,
Những người muôn năm cũHai câu thơ như một nén nhang tưởng niệm về một thời đại vàng son của nền Nho học vốn là truyền thống của nền văn hoá dân tộc. Những người muôn năm cũ không còn nữa nhưng hương hồn họ, giá trị mà họ đã góp phần vào cuộc sống tinh thần của đất nước giờ đang ở đâu? Câu hỏi ấy vương vấn mãi trong lòng tác giả cũng như trong lòng người đọc.
Hồn ở đâu bây giờ?
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:50
Vũ Đình Liên (1913 – 1996) là nhà giáo viết văn làm thơ. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với bài thơ Ông đồ viết theo thể ngũ ngôn trường thiên gồm có 20 câu thơ. Nó thuộc loại thi phẩm từ cạn mà tứ sâu biểu lộ một hồn thơ nhân hậu, giàu tình thương người và mang niềm hoài cổ bâng khuâng.
Ông đồ là những nhà nho, không đỗ đạt cao để đi làm quan, mà chỉ ngồi dạy học chữ nghĩa Thánh hiền. Ông đồ được nhà thơ nói đến là nhà nho tài hoa. Ông xuất hiện vào độ hoa đào nở... bên phố đông người qua. Ông đã có những tháng ngày đẹp, những kỷ niệm đẹp:
Hoa tay thảo những nétHoa đào nở tươi đẹp. Giấy đỏ đẹp, mực Tàu đen nhánh. Nét chữ bay lượn tài hoa. Còn gì vui sướng hơn:
Như phượng múa rồng bay.
Bên phố đông người quaThời thế đã đổi thay, Hán học lụi tàn trong xã hội thực dân nửa phong kiến như Tú Xương từng viết:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Nào có ra gì cái chữ NhoXưa kia bao nhiêu người thuê viết, bây giờ người thuê viết nay đâu? Một câu hỏi cất lên nhiều ngơ ngác, cảm thương. Nỗi sầu, nỗi tủi từ lòng ông đồ như làm cho mực khô và đọng lại trong nghiên sầu, như làm cho giấy đỏ nhạt nhoà buồn không thám. Giấy đỏ, nghiên mực được nhân hoá, thấm bao nỗi buồn tê tái của nhân tình thế sự: Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiến sầu...
Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co...
Lá vàng rơi trên giấy!Thơ tả ít mà gợi nhiều. Cảnh vật tàn tạ mênh mang. Lòng người buồn thương thấm thía.
Ngoài giời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,Thương ông đồ cũng là thương một lớp người đã vĩnh viễn lùi vào quá khứ. Thương ông đồ cũng là xót thương một nền văn hoá lụi tàn dưới ách thống trị của ngoại bang. Sự đồng cảm xót thương của Vũ Đình Liên đối với ông đồ đã trang trải và thấm sâu vào từng câu thơ, vần thơ. Thủ pháp tương phản, kết hợp với nhân hoá, ẩn dụ, đã tạo nên nhiều hình ảnh gợi cảm, thể hiện một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, đậm đà.
Không thấy ồng đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Gửi bởi Đỗ An Khương ngày 09/02/2017 20:19
Cho mình hỏi bài thơ thể Hán Việt đó là bạn làm hả?