Trinh Đường (1/1/1919 - 28/9/2001) tên thật là Trương Đình, các bút danh khác có Phú Xuân, La Vân, Duy Mỹ. Ông sinh trong một gia đình nho học ở làng Phú Xuân, xã Đại Thắng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ ông học chữ nho, sau lại học tiếng Pháp và thơ phương Tây. Ông yêu thơ và bắt đầu làm thơ từ tuổi thiếu niên, nhưng thời kỳ trước năm 1945, ông chưa công bố thơ.
Trong thời kỳ Cách mạng, ông làm thư ký Đoàn văn hoá kháng chiến tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (1946). Năm 1947-1954, ông là uỷ viên Ban chấp hành chi hội văn nghệ Liên khu V, phân hội trưởng phân hội văn nghệ Quảng Nam. Trong thời gian này, ông sáng tác nhiều thơ văn phục vụ cách mạng. Bài thơ đầu tiên của ông được nhiều người biết đến là bài Hồi ký đầu thu. Sau hoà bình, ông tập kết ra Bắc. Từ đó, ông lần lượt công tác ở các cơ quan thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, viết sung sức và ông lần lượt cho xuất bản nhiều tập thơ: Hoa gạo, Hạt giống, Thuỷ triều, Bạch Đằng tráng khúc, Về Thanh. Ông nghỉ hưu năm 1981, qua đời tại Hà Nội năm 2001.
Tác phẩm:
- Hoa gạo (NXB Văn học, 1960)
- Hạt giống (NXB Văn học, 1966)
- Thuỷ triều (NXB Văn học, 1973)
- Bạch Đằng tráng khúc (trường ca, Sở Văn hoá Hồng Quảng, 1963)
- Về Thanh (Sở Văn hoá Thanh Hoá, 1974)
- Giao mùa (NXB Hội Nhà văn, 1982)
- Quán trọ (NXB Lao động, 1991)
- Hội hoá trang (NXB Thanh niên, 1992)
- Hành trình (thơ, NXB Thanh niên, 1995)
- Trò chơi phù thế (NXB Thanh niên, 1997)
- Cà Mau (trường ca, NXB Thanh niên, 1997
- Điện Biên Phủ trên không (trường ca, NXB Đà Nẵng, 1997)
- Thơ Trinh Đường (thơ với tuổi thơ, NXB Kim Đồng, 2001)
- Tuyển tập thơ Trinh Đường (Thanh Quế tuyển tập chọn và giới thiệu, NXB Đà Nẵng, 2001)
Trinh Đường (1/1/1919 - 28/9/2001) tên thật là Trương Đình, các bút danh khác có Phú Xuân, La Vân, Duy Mỹ. Ông sinh trong một gia đình nho học ở làng Phú Xuân, xã Đại Thắng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ ông học chữ nho, sau lại học tiếng Pháp và thơ phương Tây. Ông yêu thơ và bắt đầu làm thơ từ tuổi thiếu niên, nhưng thời kỳ trước năm 1945, ông chưa công bố thơ.
Trong thời kỳ Cách mạng, ông làm thư ký Đoàn văn hoá kháng chiến tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (1946). Năm 1947-1954, ông là uỷ viên Ban chấp hành chi hội văn nghệ Liên khu V, phân hội trưởng phân hội văn nghệ Quảng Nam. Trong thời gian này, ông sáng tác nhiều thơ văn phục vụ cách mạng. Bài thơ đầu tiên của ông được nhiều người biết đến là bài Hồi ký đầu thu. Sau hoà bình, ông tập kết ra Bắc. Từ đó, ông lần lượt công…
Thơ dịch tác giả khác