Thơ đọc nhiều nhất
Thơ thích nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Tạo ngày 06/03/2007 06:04 bởi
Vanachi, đã sửa 1 lần, lần cuối ngày 12/05/2008 13:19 bởi
Cammy Trần Huyền Trân (13/9/1913 - 22/4/1989) tên thật là Trần Đình Kim, sinh và mất tại Hà Nội. Ông quê ở huyện Ân Thi, Hưng Yên, tham gia phong trào Thơ mới. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Việt Minh, làm việc ở đoàn kịch Tháng Tám. Sau năm 1954, Trần Huyền Trân chuyển sang hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực sân khấu. Cùng với một số người bạn như Lộng Chương, Lưu Quang Thuận, Hà Văn Cầu, Nguyễn Đình Hàm... ông đã bỏ tiền túi ra thành lập nhóm chèo Cổ Phong để có nơi bảo lưu những giá trị nghệ thuật của dân tộc và đào tạo nghề cho các lớp diễn viên. Ông là người đã dày công sưu tầm, chỉnh lý những tích chèo cổ, những trích đoạn đã trở thành mẫu mực của nghệ thuật chèo (như Xuý Vân giả dại, Quan âm Thị Kính...).
Làm thơ từ năm 20 tuổi, Trần Huyền Trân đã để lại một di sản văn học, nghệ thuật khá đồ sộ, gồm 13 vở kịch – kịch thơ, 17 vở chèo, như: Lên đường, Hoàng Văn Thụ, Đêm trong tù, Lam Sơn tụ nghĩa, Sơn Tinh – Thuỷ Tinh, Tiếng hát bên nôi, Tạ Thị Kiều, Lửa Hà Nội, Lý Thường Kiệt... Bên cạnh đó, ông còn là tác giả của khối lượng lớn những tác phẩm văn xuôi, tiểu thuyết: Tấm lòng người kỹ nữ, Người ngàn thu cũ, Sau ánh sáng, Lẽ sống... và hơn 100 bài thơ viết từ trước cách mạng tháng Tám. Từ những đóng góp trên, Trần Huyền Trân được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Về nguồn gốc của bút danh Trần Huyền Trân, theo Tô Hoài (Phê bình – bình luận văn học, NXB Văn nghệ TPHCM): Thời gian sống ở phố Khâm Thiên, ông có gặp gỡ một người con gái làm việc cho quán hát cô đầu tên gọi Trần Nguyệt Hiền, do có thai nên bị đuổi việc. Thương cảm trước hoàn cảnh éo le của cô gái ông đã đứng ra cưu mang, lo cho cô sinh nở và khi cô sinh con gái ông đã đặt tên là Trần Huyền Trân (ý nói hai người họ Trần vì “Trân” thêm dấu huyền thành “Trần”). Tên con đã trở thành tên thơ của ông từ đó.
Các tác phẩm:
- Sau ánh sáng (1940)
- Bóng người trên gác binh (1940)
- Tấm lòng người kỹ nữ (1941)
- Người ngàn thu cũ (1942)
- Phá xiềng
- 19-8
- Rau tần (1986)
- Chim lồng
- Lẽ sống
- Lên đường
- Tú Uyên Giáng Kiều
Trần Huyền Trân (13/9/1913 - 22/4/1989) tên thật là Trần Đình Kim, sinh và mất tại Hà Nội. Ông quê ở huyện Ân Thi, Hưng Yên, tham gia phong trào Thơ mới. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Việt Minh, làm việc ở đoàn kịch Tháng Tám. Sau năm 1954, Trần Huyền Trân chuyển sang hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực sân khấu. Cùng với một số người bạn như Lộng Chương, Lưu Quang Thuận, Hà Văn Cầu, Nguyễn Đình Hàm... ông đã bỏ tiền túi ra thành lập nhóm chèo Cổ Phong để có nơi bảo lưu những giá trị nghệ thuật của dân tộc và đào tạo nghề cho các lớp diễn viên. Ông là người đã dày công sưu tầm, chỉnh lý những tích chèo cổ, những trích đoạn đã trở thành mẫu mực của nghệ thuật chèo (như Xuý Vân giả dại, Quan âm Thị Kính...).
Làm thơ từ năm 20 tuổi, Trần Huyền Trân đã để lại một di sản văn học,…