Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Thôi Hiệu
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại,
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không.
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một,
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi.
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn!
Trang trong tổng số 13 trang (123 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] ... ›Trang sau »Trang cuối
Gửi bởi ladyburg ngày 01/08/2009 20:48
Có 1 người thích
theo em biết ở bản dịch của Khương Hữu Dụng câu thứ ba phải là: "Hạc vàng một đã đi đi biệt"
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi kung fu thiếu lâm ngày 01/11/2009 08:27
Có 2 người thích
Người xưa đã cưỡi chim Hoàng Hạc,
Đất trời lầu Hạc hãy còn đây.
Hạc vàng bay qua không trở lại;
Ngàn năm mây trắng nhở nhơ bay.
Hán Dương sông sáng, cây rõ bóng,
Cỏ thơm Anh Vũ, bãi xanh dày.
Trời chiều quan tái, quê đâu nhi?
Trên sông sóng khói gợi sầu đầy....
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi ThachHuong ngày 13/12/2009 06:34
Có 1 người thích
Hạc vàng người cũ đã bay xa
Trơ lầu hoàng hạc bóng ai qua
Hạc vàng sải cánh không trở lại
Ngàn năm mây trắng vẫn thướt tha
Hán Dương cây rậm lay bóng nước
Cỏ non Anh Vũ bãi xanh la
Chiều nay quê cũ nhìn đâu thấy
Khói sóng trên sông nhuộm bóng tà
Gửi bởi Khoi Dinh Bang ngày 12/03/2010 14:44
Có 1 người thích
Bài thơ HOÀNG HẠC LÂU của Thôi Hiệu xưa nay được coi là " tuyệt kỳ bút pháp"...chỉ mấy chữ"tình xuyên phương thảo,nhật mộ yên ba"...với nghệ thuật thơ Đường bậc thầy thì Thôi Hiệu đã mệnh ý hết rồi,thẩm cách xong rồi và phát bút đã là vô tiền khoáng hậu; thế nghĩa là với HOÀNG HẠC LÂU thi sĩ đã đạt tiêu chí" hoàn hảo" khiến cho Đại thi hào Lý Bạch cũng phải cúi đầu nhún nhường"đạo bất đăc"( không nói được nữa !)? Các cụ ta xưa đã từng giảng :
Cái "diệu" của Thôi Hiệu ở chỗ: chỉ 1 câu tả "lầu",còn 3 câu kia đều tả " người xưa"...trong đó câu 1 tả "người xưa",câu 3 là nghĩ "người xưa",câu 4 là ngóng "người xưa",cứ như phớt lờ không nhắc gì đến "lầu". Câu 5-8 tiền giải tả "người xưa",hậu giải tả "người nay",tuyệt nhiên không tả đến "lầu",Thi sĩ chỉ NHẤT Ý TỰA CAO TRÔNG XA,riêng thổ lộ hoài bão của mình.Rồi"hương quan hà xứ thị"(ở nơi này)với cây thì "lịch lịch"(in rõ),bãi thì"thê thê"(tươi tốt),riêng có MẮT thì ngóng "hương quan" là không biết "hà xứ"(nơi nào). Rồi với 2 chữ "nhật mộ"(chập tối lúc chim về tổ, gà vào chuồng) đặt NGANG lên câu thơ làm cho 24 con chữ trong 4 câu tiền giải cùng nhảy múa tạo nên tuyệt tác để "đời sau đừng ai làm thơ về Hoàng Hạc Lâu nữa mà chuốc lấy hổ thẹn "?!
Gửi bởi Khoi Dinh Bang ngày 12/03/2010 15:52
Có 1 người thích
Nếu nguyên tác của Thôi Hiệu là tuyệt bút thì bản dịch của Tản Đà lâu nay được coi là tuyệt vời ? Tuy nhiên,cái chỗ"còn có để mà bàn"(thảo luận) như chữ"không"(luồng những)trong câu thứ 2,được xem là " thi nhãn"(chữ mắt)thể hiện cái hồn của bài thơ:tâm trạng bâng khuâng,mênh mang.man mác ,buồn hiu hiu da diết ...Tản Đà dịch bằng chữ "trơ" là khá đắt ! Câu 3 "hạc vàng bay đi là thôi không trở lại" mà dịch là "hạc vàng đi mất từ xưa" thì quả là không đạt ?Câu 4 "không du du"(bay lững lờ trên bầu không-trôi mãi mãi)chữ "không" ở đây là "vĩnh viễn"...cũng như câu 5+6 dịch ra tiếng Việt quả thực là rất khó nói hết cái thi trung hữu hoạ,hữu nhạc,hữu hương của nguyên tác ?
Theo thiển ý của NK thì Cái "gốc"(nguyên nhân,cốt lõi)có lẽ là ở chỗ "thể loại" ?
Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu là viết theo" Luật thi".Đại thi hào Lý Bạch sở dĩ hư tâm phục thiện như thế chỉ vì chính ông hiểu rõ Luật thi cam khổ;Còn bản dịch của Tản Đà là "lục bát" (thơ dân tộc) dịch Hán ra Việt để Người Việt thưởng thức cái áng thiên cổ kỳ thi này.Cái "vênh",cái "khó" của DỊCH (chuyển ngữ) là ở chỗ này.Thể thất ngôn bát cú:mỗi câu 7 chữ,rồi từng cặp đôi câu theo phép KHỞI-THỪA-CHUYỂN-HỢP (đối nhau chằm chặp ),chữ MẮT (nhỡn tự) đắc địa ở chỗ nào ? với những Ý mới,tứ lạ,thi cách ra sao ? được chuyển dịch sang lục bát :1 câu 6 dịch câu 7,rồi 1 câu 8 dịch câu 7...nếu không gối chữ,trùm ý(gọi 2=2) THÌ ĐỐ AI DỊCH nổi(chữ=chữ,ý=ý lại lột tả được cái HỒN (cái Thần của thi phẩm).Chao ôi,"dịch là phản" như chơi là thế!
Ở Tản Đà,có lẽ bản dịch Hoàng Hạc Lâu là đạt hơn cả.Sự đáng châm chước của lối dịch thơ kiểu này(luật thi ra lục bát)là không nên cố chấp"chữ đổi chữ" mà lấy Ý hớp HỒN là chính.Do đó 2 câu kết,Tản Đà dịch là "
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Xét về ngữ nghĩa,âm điệu (của thơ Việt) thì phải nói là đã đạt mức "tuyệt tác"...ta đọc lên,ngâm nga thấy SƯỚNG hơn cả đọc nguyên tác !?
Còn về 2 chữ "phương thảo" (cỏ thơm)mà dịch là "cỏ non" là cách nói thông dụng của dân gian đất Việt.
Dịch ra "Lục bát" là lối dịch "thoát",phải là tay cự phách trong làng thơ như Tản Đà mới có được một bản dịch bất hủ như vậy !
Gửi bởi Khoi Dinh Bang ngày 01/04/2010 15:05
Có 1 người thích
"Hoàng Hạc Lâu" thuộc hàng đệ nhất Luật thi đời Đường.Tác giả của thiên kỳ thi tuyệt hảo này là Thôi Hiệu(?-754)người Biện Châu(nay là huyện Khai Phong,tỉnh Hà Nam),đỗ Tiến Sĩ năm Khai Nguyên 13(725),làm Quan đến chức Tư huân Viên ngoại lang(cỡ Vụ phó ngày nay-hàm ngũ phẩm).Ông bản tính lãng mạn,ham đánh bạc,rượu chè,thích "của lạ"(thay vợ đến 4 lần).Hồi trẻ thơ ông diễm lệ bóng bẩy;đến cuối đời phong thái cốt cách mạnh mẽ rắn rỏi,sáng tạo tân kỳ có thể theo kịp Giang Yêm,Bão Chiếu.Ông khổ vì ngâm vịnh đến trở bệnh xanh xao hốc hác cả người(hết mình vì làm thơ),Bạn ông đùa nói:"không phải Bác bệnh nó đến như vậy,bởi khổ vì ngâm thơ nên gầy mà thôi !
Ở Thôi Hiệu cho ta bài học : sở dĩ con người ta "thành đạt" là do có TÀI,có CHÍ và gặp THỜI ( ở đây là thời Khai Nguyên-Thiên Bảo rất thuận cho trí thức đi thi đỗ Tiến Sĩ,làm Quan và làm Thơ...tha hồ thi thố tài năng phò Vua,chấn hưng đất nước.)
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi Hà Nam đàn ngày 04/04/2010 08:04
Có 1 người thích
Bóng hạc vàng xưa không còn nữa
Lầu hạc còn trơ những dấu xưa
Hạc vàng bay mãi đi về nơi nao
Mây trắng vẫn lững lờ giữa tầng không
Bên sông Hán Dương cây ngàn rợp bóng
Bãi Anh Vũ cỏ thơm mát đôi bờ
Hoàng hôn xuống mang đầy nỗi nhớ
Quê hương mờ,khói sóng dục khách xa
Gửi bởi Khoi Dinh Bang ngày 02/05/2010 13:53
Có 1 người thích
*1-Về bản dịch của Nguyễn Đôn Phục:Đây là bản dịch Quốc ngữ vào loại sớm nhất(Nam Phong tạp chí 1923),là bàn dịch đọc khá chối tai (rất trúc trắc)nhưng rất công phu,rất già tay(túc Nho);Công phu ở chỗ: theo sát nhạc điệu của nguyên tác,sát cả ở những chỗ sai niêm,thất luật.Nếu xét theo Nhà dịch thuật nổi tiếng đời Thanh là Nghiêm Phục đã nêu ra tiêu chuẩn về dịch thuật là phải TÍN,ĐẠT,NHÃ...thì bản dịch của Nguyễn Đôn Phục còn ở mức "thô",chưa Đẹp và Sang như nguyên tác.
*2-Bản dịch của Tản Đà : trái lại,bay bướm nhẹ nhàng,văn chương trầm bổng theo cung điệu lục bát(đượm hồn dân tộc )...in ở Tạp chí Ngày Nay số 80,ngày 10-10-1937.
Tuy nhiên,theo nguyên tác: ở Thôi Hiệu,đó là cái không khí mang mang day dứt,nỗi bơ vơ hiu quạnh của thân phận con người lạc lõng giữa trần gian trong buổi hoàng hôn mà thiên đường (Quê hương) thì đã mù mịt lối về ! Cái không khí ấy đã bị Tản Đà thuần hóa trở nên nhu mì mềm mại,nhẹ nhàng trôi chảy trong dòng Ca dao (lục bát). Cái HAY của Tản Đà là ở chỗ ấy,nó vào hồn Người Việt là vì lẽ ấy;Nhưng nó cũng là cái hụt hẫng khi chuyển thể như thế vậy chăng?
Gửi bởi Khoi Dinh Bang ngày 02/05/2010 14:45
Có 2 người thích
Đến nay đã có trên 50 bản dịch Hoàng Hạc Lâu...nhưng xem ra chỉ có 2 bản là đáng đọc hơn cả-đó là bản của Tản Đà và bản của Vũ Hoàng Chương ( 2 Nhà thơ lớn của Dân tộc ).
Như ta đã biết : Thôi Hiệu,con ngừơiphát ốm vì làm thơ,Thi sĩ đã vận dụng hết mười phần công lực phá vỡ luật thơ thất ngôn,sử dụng 6 thanh "trắc" liên tiếp để "vẽ" lên và gửi vào đấy nỗi lòng (của con người thời đại):
Hoàng hạc mhất khứ bất phục phản
bạch vân thiên tải không du du
để đến bậc Thi hào bậc nhất đương thời là Lý Bạch phải "đạo bất đắc " chịu thua,cúi đầu ra đi...
Còn Thi sĩ Vũ Hoàng...ở Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư, thì "ung dung rút kiếm(nói như Tô Thẩm Huy)là giữa trời thơ,phóng con mắt nghìn đời dõi theo cánh hạc đã mù khơi bay mất mà thong thả dụ dắt nó quay về trong cung bậc thất ngôn niêm luật ? Đó là 2 câu dịch thực hay của Vũ bay bổng giữa trời aỏ diệu:
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi,
Trắng một màu mây vạn vạn đời.
một màu vàng lóe lên giữa trời vụt tắt,một màu vàng tung lên rồi vĩnh viễn ra đi,không,bao giờ trở lại,nhưng mãi mãi lấp lánh trong tâm tưởng và thân phận con người(kiếp nhân sinh).Đọc đến câu cuối "Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi" thì là cả một trời Đường Thi nghìn năm bỗng lay động.Giá như Thôi Hiệu xưa sống lại đọc bản dịch của Vũ thì chắc cũng rất tri âm tri kỷ với " sóng ơi,sầu đã chín,xin người thôi giục"đó là sóng của bể dâu,hưng phế .
Ta thử đọc lại 2 câu theo âm Hán/Việt :
-Yên ba giang thựơng sử nhân sầu
-Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi !
Sẽ thấy: nội công thâm hậu của Vũ (tài hoa,lao tâm khổ tứ khi dịch):
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Nếu đưa chữ "hạc" lên đầu câu :
Hạc vàng tung cánh đi đi mãi
thì cả một trời thơ lung linh tối sầm lại ?"
Chao ôi, Thi tài là thế-và có lẽ sau Vũ Hoàng...không ai nên dịch lại(Hoàng Hạc Lâu)nữa ?
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi Pang De ngày 04/06/2010 13:45
Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Pang De ngày 11/06/2010 10:34
Có 1 người thích
Người trước bay đâu cùng cánh hạc,
Chốn này trơ lại mỗi lầu không.
Hạc vàng một chuyến không về lại,
Mây trắng ngàn năm vẫn lượn vòng.
Sông tạnh Hán Dương cây rõ bóng,
Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh nồng.
Chiều buông mắt dõi quê đâu tá,
Khói sóng khơi buồn toả mặt sông.
Trang trong tổng số 13 trang (123 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] ... ›Trang sau »Trang cuối