Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Phan Thị Thanh Nhàn » Con muốn mặc áo đỏ đi chơi (2016)
Người con gái trẻ măng
Giặc đem ra bãi bắn
Đi giữa hai hàng lính
Vẫn ung dung mỉm cười
Ngắt một đoá hoa tươi
Chị cài lên mái tóc
Đầu ngẩng cao bất khuất
Ngay trong phút hy sinh
Bây giờ dưới gốc dương
Chị nằm nghe biển hát
Đó là câu chuyện thực
Về người nữ anh hùng
Nhưng ở đảo Côn Sơn
Từ buổi mai chị ngã
Đã có bao câu chuyện
Về chị Sáu linh thiêng
Những truyền thuyết không tên
Cứ lan dần như sóng
Đảo Côn Sơn - địa ngục
Chị Sáu hoá thiên thần
Trừng trị lũ ác ôn
Cứu giúp người lương thiện
Qua bao mùa gió chướng
Trong bão tố tù đày
Mộ chị Sáu hương bay
Cả bốn mùa không tắt
Và trái cây thơm mát
Cũng theo mùa dâng lên
Tạ lỗi khi sai lầm
Kêu cầu khi gặp nạn
Chị Sáu thành người bạn
Sống giữa lòng nhân dân
Ngay cả lũ ác ôn
Mỗi khi qua mộ chị
Cũng cúi đầu lặng lẽ
Trước chị Sáu anh linh
Người con gái hiên ngang
Chúng mãi còn khiếp sợ
Tôi quỳ bên ngôi mộ
Dâng đoá hoa trắng trong
Trời cao xanh mênh mông
Biển rộng xa xao động...
Chị Sáu nằm thanh thản
Hàng dương nghe gió rung
Và bao chuyện lạ lùng
Trong lòng tôi tha thiết
Bỗng như là có thật
Sống mãi cùng thời gian
Bàn tay ai vuốt tóc
Trên vai tôi dịu dàng
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi hảo liễu ngày 12/07/2015 22:42
Gọi điện cho nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, hỏi bà về bài thơ Võ Thị Sáu (SGK Tiếng Việt lớp 1, tập hai) thấy bà dừng giây lát rồi hỏi lại: Bài Võ Thị Sáu nào nhỉ? Tưởng bà quên, tôi đọc lại: Người con gái trẻ măng/ Giặc đem ra bãi bắn/ Đi giữa hai hàng lính/ Vẫn ung dung mỉm cười… thì bà mới “à” lên một tiếng rồi bảo: “Đó là một phần trong bài thơ Truyền thuyết trên đảo Côn Sơn của tôi”.
Tưởng gặp lại em trai đã mất trên Côn Đảo
Sau giải phóng Sài Gòn (30/4/ 1975), nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, khi đó là phóng viên báo Hà Nội mới được cử vào miền Nam công tác 4 tháng. Trong vệt dài Nam tiến ấy, bà đi qua nhiều miền quê mà đến tận bây giờ những hình ảnh về những người bà đã gặp vẫn còn nguyên trong ký ức. Đặc biệt là những hình ảnh, con người ở Côn Đảo.
Nhà thơ kể: Khi vào đến Sài Gòn, nhiều người lo không muốn để tôi đi Côn Đảo. Thế rồi, nhà văn Mai Vui và một người bạn của ông rủ tôi và nhà thơ Anh Thơ cùng đi, thế là chúng tôi đi không hề đắn đo gì cả. Khi tàu cập Côn Đảo, hình ảnh đầu tiên làm tôi phát khóc chính là khi bắt gặp khuôn mặt một người lính giống hệt em trai tôi đã hy sinh ở chiến trường. Cảm động hơn nữa là chú lính này quan tâm, săn sóc tôi rất chu đáo.
Sự gần gũi làm tôi cứ tưởng như đang được sống cạnh người em trai rất đỗi ngoãn ngoãn, siêng năng đã hy sinh vì nền độc lập thống nhất của đất nước. Đặc biệt, tôi đã khóc rất nhiều, khóc liên tục khi Việt (tên người lính) kể về giây phút thanh niên Hà Nội tiến vào Sài Gòn trong ngày giải phóng, khoác vai nhau đi không biết chán trên những con đường Sài Gòn và thậm chí mệt quá có thể nằm lăn ra ngủ. Anh ta kể: Khi tỉnh giấc, giật mình cứ ngỡ đang còn chiến tranh nhưng sau đó nhận ra đất nước đã thống nhất và đó là giấc ngủ thời bình, giấc ngủ của sự tự do đầu tiên nên làm tôi càng nhớ, càng thương em trai của mình hơn... Quả thực, tôi cứ nghĩ em trai tôi chưa mất mà thậm chí đang ở rất gần tôi khi đó.
Đến bây giờ, lứa thanh niên Hà Nội trên Côn Đảo ngày ấy vẫn còn sống mấy người và chúng tôi thi thoảng vẫn hay gặp nhau. Tuy nhiên, chỉ họ là nhận ra tôi, còn tôi thì chỉ nhớ mỗi khuôn mặt của chú Việt - người lính giống em tôi như hai giọt nước!
Truyền thuyết trên đảo Côn Sơn
Buổi sáng. Chúng tôi cùng nhau ra nghĩa địa Hàng Dương. Tôi nhớ, nghĩa địa Hàng Dương khi ấy còn xơ xác lắm chứ không được như bây giờ. Những ngôi mộ cao thấp, nhấp nhô nhìn rất thương.
Mộ chị Sáu dưới chân một cây dương cụt ngọn, chỉ còn lại một nhành rất tươi hướng về phía Bắc. Mộ chị Sáu không có bia khắc tên, tuổi, quê quán như bây giờ mà chỉ có một tấm tôn gỉ ghi số tù. Hàng ngày, những người sống trên đảo, không người này thì người khác đều đến trước mộ chị Sáu thắp hương, dâng hoa, quả. Thậm chí tôi còn nghe người trên Côn Đảo kể lại rằng sau ngày chị Sáu bị xử bắn, chị thiêng lắm nên tụi lính tráng cũng thường xuyên ra sám hối trước mộ chị, thắp hương khấn vái nhiều lắm...
Đêm, tôi cộng hưởng tất cả những giai thoại, những cảm nhận, những suy nghĩ, hình ảnh về chị Sáu viết thành bài Truyền thuyết trên đảo Côn Sơn. Bài thơ được in trên báo Văn nghệ số 43 năm 1976. Khi may mắn được chọn in vào SGK cho các em học sinh học, ban tuyển chọn chỉ lấy 10 câu đầu bài thơ và đặt tên là Võ Thị Sáu.
Chị Sáu đã trở thành một huyền thoại, ăn sâu vào ký ức mỗi người. Chạm đến ký ức ấy là chạm đến những câu chuyện đẹp, hình ảnh đẹp và con người ta cũng thấy mình đẹp lên. Với học trò cũng vậy, nhất là đối với trẻ em mới bắt đầu đi học. Nếu “dệt vào ký ức” các em những bài học tốt, những hình ảnh đẹp... có giá trị, tôi tin các em sẽ mang theo suốt cuộc đời!