Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Cao
嗟嗟造物奚以我為生?
與我以智而短其志,
與我以成而病其形。
既不能為駒之昂昂千里,
又不能為鳧之泛泛中行。
既不能為鷙鳥之竦身側目,
又不能為隱豹之歛彩藏聲。
嗟嗟造物奚以我為生?
濫從科宦歷閱周星,
久安恬退偶此艱貞。
忽聞有命不敢以遑寧,
名義為重利害為輕。
欲以理勝難與勢爭,
悍然不顧有為無成。
嗟嗟造物奚以我為生?
上無以報答君父,
下無以極濟生靈。
內無以義誨子姪善化族里,
外無以忠信從者始終朋情。
民生三事慚負涕零。
嗟嗟造物奚以我為生?
生而淪於犬羊之異域,
何如死而同乎天地杳冥。
生而為人間之懸疣附贅,
何如死而為江山之瓊枝玉英。
弭霑水碧濃常山青,
一寸靜地千古佳城。
悠悠乎!洋洋乎!
朔之劍!空之詩!藤之樁!
相與為陟降左右風雨雷霆,
以洗乎弥天之腥。
嗟嗟造物奚以我為生?
疇昔之夜夢與屈子平對我言:
「去弔就賀,去賀就弔」。
戲劇數段酒觴未傾,
而今焉如夢如覺,如醉如醒。
知我者或譏其過憤,
不知者或惡其要名。
知與不知,
又安計當世後世之是非稱衡,
自知自分聊以自銘。
嗟嗟造物奚以我為生?
人誰滿百,半百艾零,
我以為壽塵當解纓。
而又何羨乎人生之長勤,
傷苦海之零汀。
嗟嗟造物奚以我為生?
尚其歸告家兒祝我故室:
昔卿於家之江,
今我於國之江,
雖不得同時同日,
猶得同流同清。
嗟嗟造物奚以我為生?
Ta ta tạo vật hề dĩ ngã vi sinh?
Dữ ngã dĩ trí nhi đoản kỳ chí,
Dữ ngã dĩ thành nhi bệnh kỳ hình.
Ký bất năng vi câu chi ngang ngang thiên lý,
Hựu bất năng vi phù chi phiếm phiếm trung hành.
Ký bất năng vi chí điểu chi tủng thân trắc mục,
Hựu bất năng vi ẩn báo chi liễm thái tàng thanh.
Ta ta tạo vật hề dĩ ngã vi sinh?
Lạm tòng khoa hoạn lịch duyệt chu tinh,
Cửu an điềm thoái ngẫu thử gian trinh.
Hốt văn hữu mệnh bất cảm dĩ hoàng ninh,
Danh nghĩa vi trọng lợi hại vi khinh.
Dục dĩ lý thắng nạn dữ thế tranh,
Hãn nhiên bất cố hữu vi vô thành.
Ta ta tạo vật hề dĩ ngã vi sinh?
Thượng vô dĩ báo đáp quân phụ,
Hạ vô dĩ cực tế sinh linh.
Nội vô dĩ nghĩa hối tử điệt thiện hoá tộc lý,
Ngoại vô dĩ trung tín tòng giả thuỷ chung bằng tình.
Dân sinh tam sự tàm phụ thế linh.
Ta ta tạo vật hề dĩ ngã vi sinh?
Sinh nhi luân ư khuyển dương chi dị vực,
Hà như tử nhi đồng hồ thiên địa diểu minh.
Sinh nhi vi nhân gian chi huyền vưu phụ chuế,
Hà như tử nhi vị giang sơn chi quỳnh chi ngọc anh.
Nhị triêm thuỷ bích Nùng thường sơn thanh,
Nhất thốn tĩnh địa thiên cổ giai thành.
Du du hồ! Dương dương hồ!
Sóc chi kiếm! Không chi thi! Đằng chi thung!
Tương dữ vi trắc giáng tả hữu phong vũ lôi đình,
Dĩ tẩy hồ my thiên chi tinh.
Ta ta tạo vật hề dĩ ngã vi sinh?
Trù tích chi dạ mộng dữ Khuất Tử Bình đối ngã ngôn:
"Khứ điếu tựu hạ, khứ hạ tựu điếu".
Hí kịch sổ đoạn tửu trường vị khuynh,
Nhi kim yên như mộng như giác, như tuý như tinh.
Tri ngã giả hoặc cơ kỳ quá phẫn,
Bất tri giả hoặc ác kỳ yêu danh.
Tri dữ bất tri,
Hựu an kế đương thế hậu thế chi thị phi xứng hành.
Tự tri tự phận liêu dĩ tự minh.
Ta ta tạo vật hề dĩ ngã vi sinh?
Nhân thuỳ mãn bách, bán bách ngải linh,
Ngã dĩ vi thọ trần đương giải anh.
Nhi hựu hà tiện hồ nhân sinh chi trường cần,
Thương khổ hải chi linh đinh.
Ta ta tạo vật hề dĩ ngã vi sinh?
Thượng kỳ quy cáo gia nhi chúc ngã cố thất:
Tích khanh ư gia chi giang,
Kim ngã ư quốc chi giang,
Tuy bất đắc đồng thì đồng nhật,
Do đắc đồng lưu đồng thanh.
Ta ta tạo vật hề dĩ ngã vi sinh?
Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]
Hỡi ơi trẻ tạo, sinh ta là chi?
Cho ta có hiểu biết mà chí khí không gì
Cho ta nên người mà thân thế gầy suy
Đã thua con ngựa non, dọc ngang trên đường nghìn dặm
Lại kém con chim le, thung thăng giữa dòng nước trôi đi
Đã thua con chim cắt, đậu trên cao mà liếc mắt
Lại kém cả con báo, ẩn trong núi mà giữ vằn nín tiếng đợi thì
Hỡi ơi trẻ tạo, sinh ta làm chi?
Lạm phần khoa hoạn, trải mấy tinh kỳ
Tính bề yên phận, gặp buổi gian nguy
Chợt nghe lệnh gọi, cất mình ra đi
Danh nghĩa là trọng, lợi hại sá chi
Rắp đem công lý để thủ thắng
Nhưng thế còn mạnh yếu không bì
Chí đã quyết một phen thì quyết
Dù mất công mà chẳng được việc gì
Hỡi ơi trẻ tạo, sinh ta làm chi?
Trên vua cha đã không báo đáp
Dưới dân chúng lại chẳng bù trì
Trong không dạy bảo được con cháu, cảm hoá được họ mạc
Ngoài không cố kết được tôi tớ, thuỷ chung được bạn bè
Tự xét ba việc đều thiếu sót
Thẹn đời ta mà sa lệ đầm đìa
Hỡi ơi trẻ tạo, sinh ta là chi?
Sống mà bị chìm đắm trong vùng dê chó
Thà chết đi cùng trời đất đi về
Sống mà làm vật thừa thịt bướu cõi nhân thế
Thà chết đi mà làm cành quỳnh hoa ngọc nơi nước đẹp non kỳ
Nhị biếc vẫn đó, Nùng xanh còn kia
Một tấc đất sạch, nấm mồ lè xè
Dằng dặc thay! Lồng lộng thay!
Nào gươm núi Sóc! Nào thơ trên trời! Nào cọc sông Đằng!
Khí thiêng lên xuống trên chín tầng mây
Hãy hoá làm gió mưa sấm sét
Rửa hôi tanh cho dòng nước trôi đi
Hỡi ơi trẻ tạo, sinh ta là chi?
Nhớ trong giấc mộng, gặp Khuất Bình đêm kia
Cùng ta nói chuyện "bỏ viếng tới mừng, bỏ mừng tới viếng"
Qua mấy màn kịch, rượu còn trong be
Đến nay hơi men đã hả, mộng đã hết mê
Biết ta ư? Hoặc chê ta là vội giận
Không biết ta ư? Hoặc ghét mà bảo ta muốn chuốc tiếng tăm gì
Dù biết hay không biết, dù đời nay hay đời sau
Có kể gì miệng thế cân nhắc khen chê
Tự biết và tự xét, mấy lời gọi để làm ghi
Hỡi ơi trẻ tạo, sinh ta làm chi?
Trăm năm nào mấy kẻ, tuổi năm mươi một nửa đã về
Ta nay tự cho là đã thọ, việc trần gian thôi cởi mũ đợi gì
Có ham chi cuộc đời lao lục mãi
Kiếp lênh đênh trong bể khổ những sầu bi
Hỡi ơi trẻ tạo, sinh ta làm chi?
Âu là bảo con khấn vợ, mấy lời vân vi:
Trước kia mình chết ở sông nhà
Nay ta chết ở sông nước
Tuy chẳng được cùng ngày giờ, cùng nhau cùng thác
Song vẫn chung dưới dòng nước bạc
Hồn lâng lâng không vẩn đục mảy may gì
Hỡi ơi trẻ tạo, sinh ta làm chi?
Gửi bởi Vanachi ngày 15/06/2014 19:19
Trời đất hề, sinh ra ta
Có đầu óc mà chí khí không dài
Có lòng dạ mà cơ thể ốm đau
Chẳng bằng con ngựa kia bon bon ngàn dặm
Còn kém cả con vịt trời giữa giòng nước lênh đênh
Đã thua con chim liếc mắt trên cành
Thua cả loài báo đen núp mình chờ đợi
Trời đất hề, sinh ra ta
Theo đòi sách vở từng trải việc đời
Tưởng rằng yên phận
Mà vận nước ngả nghiêng
Hồn thiêng sông núi
Réo gọi lên đường
Hỡi ơi nghĩa lớn coi là trọng
Hơn thiệt xem thường mới chí trai
Cứ như lý nay mai tất thắng
Ngặt một điều mạnh yếu chưa phân
Lòng mà đã quyết cùng thân
Mồ hôi máu chảy muôn phần chưa thôi
Trời đất hề, sinh ra ta
Trên quốc tổ chưa vuông danh phận
Dưới đồng bào ôm hận không tròn
Gia đình thân tộc chưa xong
Bạn bè xóm láng ngoài trong nhỡ nhàng
Việc dân việc nước việc nhà
Dở dang nước mắt nhạt nhoà cả ba
Trời đất hề, sinh ra ta
Sống mà quẩn như loài dê chó
Thà chết đi theo gió sớm mây chiều
Sống mà thừa như cục bướu nhân gian
Thà chết đi bồi giang sơn gấm vóc
Ôi núi Nùng sông Nhị, vẫn ngát hương xanh
Một nấm đất con thành vạn thuở
Lồng lộng mơ hồ vây bủa
Kìa kiếm Sóc Sơn, thơ Lý Thường Kiệt, cọc sắt Bạch Đằng giang
Giữa hồn thiêng sông núi
Sẽ thành mưa thành gió thành sấm sét ngang trời
Rửa những tang thương ô nhục
Theo giòng sông nước mênh mông
Trời đất hề, sinh ra ta
Có đêm nằm mộng ngồi xem kịch
Cùng Khuất Nguyên uống rượu gật gù
Đời lấy điều buồn ta chọn điều vui
Kéo mở ba màn rượu còn một hũ
Tỉnh trong khi say thức trong lúc ngủ
Hiểu ta chăng hay chê ta quá nóng?
Không hiểu ta mà giận ta danh lợi?
Hỡi ơi dù hiểu hay không
Dù đời nay đời trước hoặc đời sau
Đáng chi đâu lời khen chê phải trái
Tự ta ta biết ta ca
Bài ca đất nuớc sinh thành nước non
Trời đất hề, sinh ra ta
Đời của trăm năm
Riêng ta quá nửa
Tự cho đã đủ
Nên cởi mũ đời
Xá gì cuộc thế xôn xao
Lênh đênh bể khổ lao đao phận người
Trời đất hề, sinh ra ta
Muốn bảo con khấn
Cùng vợ ta xưa
Em chết ở sông nhà
Ta chết nơi sông nước
Tuy không cùng tháng cùng ngày
Nhưng cùng giòng nước vơi đầy trời mây
Trời đất hề, sinh ra ta!
Gửi bởi Vanachi ngày 21/06/2014 22:44
Nguyễn Cao sinh năm 1828 ở Bắc Ninh. Ông thi đỗ giải nguyên khoa Đinh Mão 1867. Đất nước đang lúc khẩn trương cả trong lẫn ngoài. Trong thì giặc giã lầm than, tham quan ô lại. Ngoài thì giặc Pháp ồ ạt xâm chiếm miền Nam, và đang lăm le miền Bắc. Vinh dự giải nguyên không đem đến cho Nguyễn Cao sự hăng hái đền ơn nhà nợ nước, mà làm chàng trai 40 ngán ngẩm ngại ngùng. Ông chưa trực tiếp nhìn thấy cảnh người Tây tàn sát người Việt, mà chỉ thấy trước mắt quan Nam sa đoạ, mua danh bán tước, bóc lột dân lành. Vì không muốn đem thân vào chốn quan trường mua bán ấy, lại thương dân đói khổ lầm than không được mở mang trí óc, Nguyễn Cao về làng mở trường dạy học. Trước là giữ được thanh cao, sau là bồi đắp dân trí, đào tạo nhân tài. Đây là tư tưởng ẩn dật của nhiều sĩ phu trước đảo điên thế cuộc.
Nhưng ý định của Nguyễn Cao không thành. Thực dân Pháp sau khi nuốt trọn miền Nam, đã tham tàn tiến vào đất Bắc (1873-1883). Tiếng súng bùng nổ tâm tình yêu nước chống thù của sĩ phu Bắc Hà. Ngay khi Pháp tấn công lần thứ nhất, Nguyễn Cao đã dứt khoát đứng lên chiêu mộ nghĩa dũng, một lòng cứu nước, diệt Tây. Ông đã đứng hẳn về phía những người đồng cảnh là dân chúng Việt Nam trước họạ ngoại xâm, và nội thù. Suốt mười năm trời đó, sát cánh với Nguyễn Thiện Thuật, tham chính với triều đình, ông chiến đấu hăng say, nghiêm chỉnh, để cuối cùng bị thương vào năm 1883, cũng là năm Pháp chiếm được Bắc Hà. Một lần nữa, ông rút về dạy học với dân quê.
Năm Ất Dậu 1885, hưởng ứng hịch Cần Vương, Nguyễn Cao lại cùng Nguyễn Thiên Thuật lập chiến khu qui mô chống Pháp. Những cuộc chiến đấu oanh liệt đã không thay đổi được cục diện trước mắt, mà Nguyễn Cao còn bị bắt giải giam vào hoả lò Hà Nội. Bấy giờ ông giữ chức Tán Tướng Quân Vụ Bắc Kỳ.
Bọn thực dân Pháp phối hợp với bọn Việt gian bán nước tìm cách mua chuộc, khai thác Nguyễn Cao. Nhưng ông là một sĩ phu không khuất phục trước danh vọng và bạo lực. Chúng dụ dỗ không được, đánh đập tra khảo cũng không xong, trước sau ông chỉ có một tấm lòng yêu nước. Chúng không tin, ông liền cấu ruột rút ra trước mặt chúng: “Lòng tôi đây! Rất thẳng!” Hành đông của ông làm chúng xanh mặt kính sợ. Chúng xúm lại băng bó cứu thương. Nhưng ý ông đã định, ông không chịu ăn uống thuốc thang, và đến ngày 14 tháng 4 năm Quí Hợi 1887, ông cắn nốt cái lưỡi để tự kết liễu mạng mình.
Nguyễn Cao mồ côi cha rất sớm, lúc mới có 7 tháng. Cha ông là Nguyễn Hanh, làm tri huyện huyện Thuỷ Đường, Bắc Ninh. Mẹ ông là hoa khôi Bắc Ninh, lúc đó mới 22 tuổi, ở vậy nuôi con. Đúng như thơ Phan Khôi:
Nuôi con cho lớn cho khônBởi vì cuộc đời bà là một cuộc đời anh hùng. Mẹ anh hùng sinh con hào kiệt. Bà được liệt vào hàng nữ lưu quốc sắc trinh liệt và can đảm phi thường. Nguyên gần làng bà có tên lý trưởng thế lực và giầu. Y rất tham lam hiếu sắc, tìm cách mua bà. Nhưng tiền bạc và thế lực của y không làm bà động tâm. Bà đã nguyện thủ tiết thờ chồng và nuôi con. Nhưng y là một thứ heo độc thèm khát, đã liều lĩnh đón đường toan cưỡng hiếp bà. Bà hết sức chống cự. Tuy thoát khỏi sự cưỡng hiếp, nhưng ngực bà đã bị tên lý trưởng kia làm hoen ố. Bà nuốt nhục sống để nuôi con. Họ hàng không hiểu, cứ tiếp tục khuyên bà tái giá, lấy tên lý trưởng. Cực chẳng đã bà phải hứa suông khi mãn tang chồng. Bà đã có chủ ý, đợi con đủ tuổi lớn khôn. Ngày tháng vẫn trôi đi trong sự ẩn nhẫn căm thù. Bà thì cứ hoãn, tên lý trưởng cứ giục giã. Cho đến khi không còn trì hoãn được nữa, bà đành thực hiện ý định sớm, lúc ấy Nguyễn Cao mới gần 10 tuổi. Bà cho mời làng trên xóm dưới, quan viên hai họ, và tên lý trưởng kia đến dự cuộc tế chồng, và... lấy chồng mới! Khi đã đông đủ, bà đứng ra kể lại đầu đuôi câu chuyện đời. Rồi không đợi ai kịp phản ứng, bà cầm dao thản nhiên cắt hai cái vú ném trước mặt mọi người: “Bàn tay cường hào ác bá của tên kia đã làm hoen ố cặp vú này, nay tôi cắt bỏ, để chồng tôi không vì thế mà thương tâm.” Rồi bà nắm tay Nguyễn Cao nói: “Mẹ đau đớn phải xa con. Con hãy ở lại, cố gắng lập thân. Giòng máu nhà ta là giòng máu trung trinh tiết liệt.” Máu và nước mắt, và cái chết ấy đã theo suốt đời Nguyễn Cao. Có lẽ trước khi cấu bụng rút ruột, qua bài “Tự phận ca”, ông hẳn phải thương nhớ mẹ ông biết chừng nào!
Rồi ra tắm máu mà chôn cái thù
Thiên địa hứa đa dung tử sởPhải chăng Nguyễn Cao còn muốn nói về nước non Việt Nam, hồn thiêng sông núi Việt Nam, dưới gầm trời này, đâu đâu ta cũng có thể sống mà xây dựng đất nước, sống mà bảo tồn được quê hương.
Trùng trùng thuỷ bích dữ sơn thanh
(Trời đất thật nhiều nơi để ở
Ngút ngàn nước biếc với non xanh)