Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Đình Chiểu
Đăng bởi Vanachi vào 13/05/2010 08:49
歷士三朝獨潔身,
非公誰傘一方民。
龍湖枉負書生老,
鳳閣空為學士臣。
秉節頻勞生富弼,
盡忠何恨死張巡。
有天六省存亡事,
難得從容就義神。
Lịch sĩ tam triều độc khiết thân,
Phi công thuỳ tán nhất phương dân.
Long Hồ uổng phụ thư sinh lão,
Phụng các không vi học sĩ thần.
Bỉnh tiết tần lao sinh Phú Bật,
Tận trung hà hận tử Trương Tuần.
Hữu thiên lục tỉnh tồn vong sự,
Nan đắc thung dung tựu nghĩa thần.
Làm quan trải ba triều vua, ông vẫn riêng mình giữ được tấm thân trong sạch,
Không có ông thì ai là người che chở cho cả một phương dân chúng.
Ở Long Hồ, ông đã uổng phụ cái chí làm người học trò già,
Nơi gác phượng ông đã làm một cách hão người bề tôi học sĩ.
Cầm cờ tiết đi sứ, nhiều phen vất vả, sống như Phú Bật,
Tận lòng trung, còn gì phải hận, chết như Trương Tuần.
Có trời phán xét chuyện mất sáu tỉnh mà ông đã gây nên,
Ông khó mà có thể thung dung thành vị thần tựu nghĩa được!
Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 15/12/2018 13:09
Mình trong sạch trải thờ ba chúa,
Không ông ai che chở dân lành.
Long hồ phụ lão thư sinh,
Ở nơi các phụng không đành làm quan.
Cầm tiết nhọc sống chàng Phú Bật,
Hết ngay sao giận mất Trương Tuần.
Mất còn sáu tỉnh trời phân,
Thung dung tựu nghĩa làm thần khó thay.
Gửi bởi Vanachi ngày 09/06/2019 17:09
Ba triều rõ mặt bậc tột lành,
Che chở cho dân buổi lửa binh.
Phượng các khôn về hồn học sĩ,
Long Hồ thà chịu tiếng thư sinh.
Sống từng nhọc bấy thân đi sứ,
Chết lại hờn chi phận giữ thành.
Sáu tỉnh mất còn trời đã định,
Nhưng tìm đâu được kẻ trung trinh.
Gửi bởi Diệu Nái Nục ngày 21/01/2021 14:39
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Diệu Nái Nục ngày 23/01/2021 16:20
Ba triều trung hiếu bậc hiền lương
Chở che bách tính lúc phong sương
Long Hồ uổng phụ đời học giả
Phụng Các không đành chốn quan trường
Thanh liêm Phú Bật, đời gian khổ
Trung nghĩa Trương Tuần, chết chẳng vương
Sáu tỉnh có trời soi xét thấy
Thiên cổ ngàn năm há thành thần.
Gửi bởi Tam Ngng ngày Hôm nay 09:16
Trong bản dịch nghĩa trên đây, hai câu cuối được dịch là:
“Có trời phán xét chuyện mất sáu tỉnh mà ông đã gây nên,
Ông khó mà có thể thung dung thành vị thần tựu nghĩa được!”
Không biết ad tham khảo bản dịch này từ đâu, nhưng rõ ràng ý nghĩa hoàn toàn ngược với giọng điệu tôn kính và tiếc thương của 6 câu trước.
Như mọi người biết, việc đánh giá Phan Thanh Giản hiện nay chưa thống nhất. Khuynh hướng “chính thống” (của nhiều sử gia Hà Nội) vẫn kết tội ông yếu hèn đầu hàng Pháp, phải chịu trách nhiệm việc mất Nam kì lục tỉnh. Phải chăng người dịch nghĩa chịu ảnh hưởng của khuynh hướng đánh giá này nên đã cố ép nghĩa hai câu cuối ra như vậy? Vì thực sự trên văn bản, theo tôi, nghĩa khác hẳn.
Câu 7:
- 有天 hữu thiên: có trời (chứng giám). 六省 tức 南圻六省 Nam kì lục tỉnh: là tên gọi miền nam thời nhà Nguyễn chỉ 6 tỉnh ở Nam kì. 存亡事 tồn vong sự: sự mất còn (sáu tỉnh). Phan Thanh Giản từng đại diện triều đình Huế kí Hoà ước Nhâm Tuất (1862) trong đó có điều khoản nhượng 3 tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn (Côn Đảo) cho Pháp. Khi Phan Thanh Giản đang giữ chức Kinh lược sứ 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) thì Pháp đánh chiếm Vĩnh Long. Phan Thanh Giản đầu hàng, uống thuốc độc tự tử. Ông đã bị triều đình Huế quy tội trong việc để mất 6 tỉnh. Nguyễn Đình Chiểu không tiện nói thẳng sự quy kết ấy bất công, nhưng rõ ràng có ý bênh vực Phan Thanh Giản, rằng người kết án sai thì còn có trời.
Câu 8:
- 難得 nan đắc: khó có được, hiếm có, đáng quý. 從容 tùng dung: thung dung. 就義神 tựu nghĩa thần: vị thần chết vì nghĩa lớn.
Tóm tắt, nghĩa hai câu này, theo tôi là:
Có trời soi xét chuyện lục tỉnh còn mất,
Khó ai được như ông, thong dong vì nghĩa lớn mà hoá thần.
Toàn bài là một giọng tôn kính, tiếc thương; đúng nghĩa một bài thơ phúng điếu. Không hề có chuyện trách móc, kết án gì ở đây cả. Cụ Đồ Chiếu thẳng thắn ngay tình, đâu có kiểu xỏ ngọt, ban đầu khen ngợi rồi sau đó chửi xỏ?