Bốn chữ đề Hưng Yên Văn miếu;
Coi quy mô khéo khéo dễ đâu hơn.
Nhớ ngày xưa Lỗ tướng xuất tư tiền;
ngô đạo dựng nên phong cảnh mới.
Có lầu cao trăng thu soi tới;
Có tháp tà mong thụ giới hiếu trung.
Có thư thanh đàn độc chốn huỳnh cung;
Có bi thạch ghi công thiên vạn cổ.
Có trì đường, có xuân chi đê thụ;
Có chuông kêu khánh vỗ tiếng gần xa.
Trước tam quan đãi hiểu có đôi nhà;
Có nước suối chảy ra trong giếng mới.
Khách quan thân như sau có hỏi rằng:
Kinh dinh Đinh Hợi ấy là năm;
Khi giao thiệp mà văn đạo vẫn thường chăm.
Công đức Nho lâm tranh tán tụng;
Rằng lấy đạo tâm duy trì đạo thống.
Tư văn này rộng mở đến đời sau,
Dẫu Tần Tuỳ Khuông Vệ cũng không âu;
Nhất nguyên khí dài lâu kim dữ cổ.
Tĩnh nhất phương chi phong vũ;
Mạc nhiên kiến sơn cao thuỷ thanh.

Phong lưu riêng một Đằng thành.
Cung tường thờ thánh, cung đình chầu vua.
Địa dư nên hoạ bức đồ,
Đại Nam nhất thống ngàn thu để truyền.
Ghi rằng: Đồng Khánh nhị niên,
Sử xanh khắc chữ Hưng Yên lên đầu.
Tam quan trên có lầu cao,
Cửa vuông bóng nguyệt soi vào cũng vuông.
Mắt thu tám cõi nước non,
Như ngồi đỉnh núi Đông Sơn những ngày.
Tháp bao giờ đứng mãi đây,
Trơ trơ cột đá đôi cây bóng chiều.
Giới trung hiếu quyết lòng theo,
Mấy ngàn năm vẫn đứng chầu thánh cung.
Nhà học nhịp mái cưu công,
Huyền ca vui tiếng trống chuông đêm ngày.
Danh giáo nhạc địa là đây,
Khói hương Văn miếu thơm bay ngạt ngào.
Nhà bia ai đắp nên cao,
So le to nhỏ tạc vào đá yên.
Hoàng triều Đồng Khánh nhị niên,
Dựng bia công đức để truyền hậu lai.
Một gương bán mẫu rộng dài,
Thu vừng nhật nguyệt soi người quan thân.
Khi dục đức lúc tảo thân,
Thương Lang một phái Tứ tân một dòng.
Đường đê cây mới vun trồng,
Cành xuân man mát vui lòng mấy xuân.
Nước mưa hoá vũ phải thời,
Cỏ hoa thuộc mấy quan xuân còn nhiều.
Chuông vàng thét tiếng bồ lao,
Hơi tan tục lự ai nào còn mê.
Khách Dương Mặc lắng tai nghe,
Đổi lòng tệ cố vui về rừng văn.
Khánh sinh ra bến Tứ tân,
Khánh hoà vì có tư văn mới hoà.
Cùng vương nghe tiếng lên nhà,
Đem lòng kính trọng đạo ta rõ ràng.
Giác đình nhà bóng như gương,
Sửa sẵn quan thường ngồi đợi triêu hy.
Sao chưa lặn bóng còn khuya,
Thấy trăng mới mọc mà ngờ rạng đông.
Giếng tròn như nguyệt nước trong,
Hàn tuyền sắc biếc bóng lồng như gương.
Sáng soi trở đậu cung tường,
Trệ cấp khi thường chịu phúc vương minh.


Bài này tuyển từ chùm thơ Văn miếu thập vịnh đề vịnh Văn miếu tỉnh Hưng Yên, chép trong Tỉnh thần chúc hỗ ca văn (kí hiệu A.2122, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm), là tập thơ ca của quan viên các tỉnh Ninh Bình, Thanh Hoá, Nam Định, Sơn Tây, Quảng Yên mừng thọ vua Tự Đức tròn 50 tuổi.

Ngày 20 tháng Mười năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), quan Tuần phủ tỉnh Hưng Yên là Hoàng Cao Khải (1850-1933) bổ kinh phí trùng tu Văn miếu tại Đằng Châu. Khi từ vũ khánh thành, trang nghiêm, mới tức cảnh làm thành mười bài thơ vịnh. Phàm bậc văn thân nào có bài hoạ đều được nộp vào công đường để điểm duyệt, bài nào hay sẽ có thưởng và được đọc lên trong buổi bình thơ. Mười bài thơ vịnh cảnh Văn miếu Hưng Yên có tên như sau: Cao lâu thu nguyệt, Cổ tháp tà dương, Học xá thư thanh, Bi đình thạch triện, Xuân chi đê thụ, Trì đường bích sắc, Kim chung khấu tỉnh, Thạch khánh hoà minh, Giác đình đãi hiểu, Viên tỉnh trừng lan. Thông thường, mỗi bài lại có một vài bài hoạ, trong đó bài Viên tỉnh trừng lan có bốn bài hoạ bằng chữ Hán và một bài dùng quốc âm có kèm theo cả lời ca, là bài ở đây.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]