Thiên quan minh mi, điểu ngữ hoa hương;
Hoá nhựt thơ trường, dàn khang vật phụ.

Ngựa hồ nghe gió bắc nghiêng tai;
Chim Việt hướng nhành nam làm ổ.

Làm người ai chẳng có lòng thương cội mến nhành;
Xử thế ai không dạ tư hương hoài thổ.

Nhớ lớp cũ xưa lặn lội trong đất Đồng Nai, khai hoang vu, ghe đoạn gian nan;
Thương đời tiền bối tiềm tàng vào miền Bà Rịa, phá rừng bụi, trăm bề lao khổ.

Qui dân lập ấp, lần hồi sáng tạo qui mô;
Vỡ ruộng đắp bờ, thỉnh thoảng gầy nên thổ võ.

Kẻ sau người trước kể có mấy đời;
Măng mọc tre tàn, phòng dư muôn hộ.

Hễ là:
Ăn trái nhớ kẻ trồng cây;
Qua cầu nỡ quên ơn tế độ.

Nền nếp trước đã lập thành;
Phận sự sau đâu dám phụ.

Ông cha ta di quyết tôn mưu;
Con cháu tớ khắc thằng tổ võ.

Nay ta đặng về xứ sở, trước viếng bà con, sau thăm phần mộ.

Thấy anh em sáu bảy tuần dư, đồng hưởng thiên niên;
Hồi lớp trước tám chín mươi ngoài, đã về cõi thọ.

Nơi quán khách, kẻ qua người lại, sánh đường bóng xế nhành dâu;
Nẻo âm dương kẻ mất người còn, chi khác ngựa qua cửa sổ.

Mảng bồn hương tiếp rước bỉ bàng;
Cảm chức việc vầy vui hớn hở.

Nghĩa xưa sau càng đượm càng nồng;
Tình sâu cạn nửa thương nửa nhớ.

Nghĩ lúc quan binh thất thủ, những mảng nghi nhau một câu quý tổng binh lương, thiết nhà hoả mà nỡ hại dân đen;
Tưởng cơn hiệu lệnh bất minh, cũng vì câu nệ mấy chữ ám thông tiêu tức, nghiêm phủ việt mà giết đành con đỏ.

Khốn khổ thay! Giặc trước mặt, không chước đuổi xua;
Thương hại ê! Con trong nhà, lại đem lòng ghét bỏ.

Vẫn dân Bà Rịa ở chốn quê mùa, chưa hề thấy mặt người Tây;
Nào phải ở đầu mối giặc, theo đầu quân giặc mà chết cho đáng số.

Hồn vô cô kêu thấu tới trời;
Máu vô tội tràn ra khắp chỗ.

Vua quan ghét đạo, bày cực hình mà trảm thảo trừ căn;
Trời đất háo sanh, làm phép nhiệm, đạo càng thêm tỏ.

Kể chi xiết những sự hàm oan;
Nói cho hết việc càng thêm tủi hổ.

Cơn bát loạn cũng có kẻ mủi lòng, thiết thiết cừu con có đạo, liều thân gia nào sợ phép quan;
Lúc tao loàn cũng có người trở mặt, hằm hằm cướp của Da-tô, đoạt sự nghiệp chẳng chừa tấc cổ.

Đạo trời phước thiện hoạ dâm, làm lành miễn được thỉ chung, tích ác sao cho bền đỗ.

Trâu chốc cật, thấy ác bay qua liền né;
Chim phải đàn, nhìn khúc mộc cũng còn kinh sợ.

Nhưng vậy,
Đâu đâu cũng là đất Thuấn, Nghiêu;
Đâu đâu cũng là dân Thang, Võ.

Nhơn ngày hỉ – hạ, cả làng sum hiệp, chẳng nhắc chi những sự đã qua.
Mượn lúc thừa bình, bốn biển vầy vui, lại màng chi việc cũ.

Dụng nhơn chẳng luận giáo lương;
Làm việc chớ làm bỉ thử.

Vậy mới rằng mộc bổn thuỷ nguyên;
Vậy mới gọi nhơn sanh hồ tổ.

Việc xóm làng cho trên thuận dưới hoà;
Bề cháu con phải ân cần dạy dỗ.

Lập trường học cho biết lễ nghi;
Độc thi thơ ngõ thông kim cổ.

Thứ cơ phong thuần tục mĩ, nhi vi lễ nghĩa chi bang;
Thà bất phụ ngả sơ tâm đinh ninh chiêu cố.

Phụ quấc âm thi nhứt thủ:
Cánh bèo lưu lạc thuở còn xuân;
Về đến quê hương rất đỗi mầng,
Hiệp mặt ba con lòng phới phở.
Viếng nơi phần mộ dạ bâng khuâng,
Nhà mình xấu tốt mình yêu chuộng;
Quán cũ xa gần dám dể dâng.
Thâm tạ hương thôn trong lớn nhỏ;
Chung cùng tiếp đãi lễ ân cần.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]