Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Huỳnh Tịnh Của » Câu hát góp (1901)
Đăng bởi Vanachi vào 09/12/2018 13:48
Nhơn tham tài tắc tử,
Điểu tham thực tắc vong,
Ai hay bậu ở hai lòng,
Dụ anh tới chốn loan phòng hại anh.
Thà tôi chịu chết trên nhành,
Chẳng thà bỏ bạn sao đành bạn ôi!
Công bất thành, danh bất toại, nàng ôi!
Dứt dây bà nguyệt, ỷ thôi rồi tình thương.
Chim loan chim én chim phụng chim nhàn,
Ba bốn con bay thẳng một đàng,
Bỏ con tước rũ, đậu cây liễu ủ, cây tùng tàn,
Mai sau anh có thác xuống xuối vàng,
Hồn khôn anh dật dựa, bên nàng anh chơi.
Đêm khuya hoài vọng đợi chờ,
Bạn loan dứt nghĩa bao giờ không hay.
Trời cao đất thấp,
Anh dện tam cấp,
Anh lập cửu trùng đài,
Vận hư trời khiến,
Anh lập hoài cũng hư.
Nhứt nhựt bất kiến như tam ngoạt hề,
Bấy lâu những tưởng bạn về với anh.
Nhứt nhựt bất kiến như tam ngoạt hề,
Thăm em một chút anh phải trở về,
Sợ e trăng lặn tư bề người dưng.
Gan teo ruột thắt chín từng, em ôi!
Em náu nương phụ mẫu cầm chừng đợi anh.
910. Tới đây cụm liễu giao nhành,
Hỏi em kết ngỡi có thành hay không.
Ký mã phùng Bá Lạc,
Đại Bàng điểu ngộ lang phong,
Anh muốn chơi cho biết chốn đục trong,
Dầu mà anh có lâm nơi tử địa, tấm lòng anh cũng ưng.
Cha mẹ biểu ưng em đừng mới phải, em ôi!
Em nỡ lòng nào, bạc ngãi với anh.
Trống điểm canh thâu trên lầu nhặt thúc,
Rượu một bầu hồng cúc giải khuây.
Chim lạc bầy tìm cây nó ẩn,
Tớ lạc thầy, thơ thẩn vào ra.
Linh đinh vịt lội giang hà,
Nói cho tốt lớp bạc đà trong tay.
Một mai bóng xế trăng lài,
Không ai gìn giữ trong ngoài cho em.
Đèn đâu cao bằng đèn Châu Đốc,
Đất nào dốc bằng đất Nam Vang,
Một tiếng anh than đôi hàng luỵ nhỏ,
Em có chút mẹ già, biết bỏ cho ai.
Nghinh hôn giá thú bất khả luận tài,
Trăm năm chẳng hiệp dươn hài,
Anh nằm lăn xuống bệ, anh lạy dài ông tơ.
Ba bốn năm tấm tượng rách, tôi cũng còn thờ,
Lòng em thương ai biết, dạ em chờ ai hay.
920. Cực khổ anh anh cũng là trai,
Ngặt em là gái, hành hài tấm thân.
Ngộ kỳ thời dục báo quân ân,
Thấy nàng muốn kết châu trần nàng ôi!
Bấy lâu bậu cần mẫn cái vườn đào,
Tình xưa ngỡi cựu, bậu có nhớ chút nào hay không.
Bậu với qua tình mặn ngãi nồng,
Siêu nước sôi chớ quạt, kẻo gió lồng anh phải che.
Sóng dợn bè tre con hứ sè đuôi phụng,
Em có xa anh rồi, cũng để bụng thương anh.
Đồng hồ vội trở sang canh,
Sá chi một chút duyên lành,
Anh than hết tiếng, con bạn đành chẳng trao.
Nguyện cùng dưới thấp trên cao,
Đón con bạn cũ mà trao trâm vàng.
Tay cầm nhành bứa luỵ ứa hai hàng,
Xuân xanh anh chẳng gặp, huê tàn gặp em.
Trăm năm cốt rụi xương tàn,
Anh có đầu thai khiếp khác, dạ anh cũng còn nhớ em.
Em chăng lo cốt rụi xương tàn,
Tiền nhựt em xảnh xẹ, hậu đoàn rã thây.
930. Vai mang kiều khấu tay giấu sợi dây dài,
Nặng nề anh không em tiếc, anh tiếc tài con ngựa hay.
Một nhành tre năm ba nhành trảy, sáu bảy nhành gai,
Thương em anh chẳng dám đoái hoài,
Chờ cho bát nước lên đài sẽ hay.
Còn chi nay thiếp mai chàng,
Ghe anh lui khỏi bến, bậu lăng loàn biết đâu.
Gối luôn chẳng đặng giao đầu,
Trai thương bát ngát gái sầu bơ ngơ.
Câu vàng lưỡi bạc nhợ tơ,
Câu thì câu vậy cá chờ có nơi.
Vợ lớn đánh vợ nhỏ, chạy ra cửa ngõ, ngóng cổ kêu trời,
Ớ anh ôi! Nhứt phu lưỡng phụ, ở đời đặng đâu.
Anh hùng trường trải chín châu,
Tới đây lâm luỵ phải đầu nhà ngươi.
Huê tàn nhuỵ rữa còn tươi,
Để trong quả bắc, chờ người phương xa.
Sớm đào tối mận lân la,
Trước là trăng gió sau ra đá vàng.
Tay ôm cái mền gấm, tay nắm cái gối vàng,
Bước vô phòng loan, riêng than với bậu,
Đành chẳng đành đừng lậu tiếng ra.
940. Đừng tin cái bụng đờn bà,
Chỉ treo gươm tuệ, nó sáng loà tợ châu.
Tay bưng dĩa muối tay bợ tràng rau,
Thỉ chung như nhứt, sang giàu mặc ai.
Áo vắt vai đi đâu hăm hở,
Em đã có chồng rồi mắc cỡ lêu lêu.
Áo vắt vai anh đi dạo ruộng,
Anh có vợ rồi chẳng chuộng bậu đâu.
Ai làm con cá bống đi tu,
Con cá thu nó khóc,
Con cá lóc nó rầu,
Phải chi ngoài biển có cầu,
Em ra em vớt cái đoạn sầu cho anh.
Chỉ xanh chỉ trắng có lộn một sợi chỉ vàng,
Dầu em có thêu phụng vẽ hoàng,
Thân anh như chiếc đò dọc, đưa nàng sớm khuya.
Con chim quyên nó lót ổ dưới đìa,
Dầu ai có vặn khoá bẻ chìa,
Đôi đứa ta mới ngộ, đừng lìa mới hay.
Bao giờ loan phụng hiệp vầy,
Thì anh mới đặng giải khuây cơn sầu.
Người rầu thì kiểng cũng rầu,
Người rầu kiểng có vui đâu bao giờ.
Muốn chồng thiếp để chồng cho,
Thiếp là quân tử thiếp lo chi chồng.
950. Một cây tùng, năm bảy con thỏ bạch nó leo chung,
Biết làm sao đặng chung cùng với nhau.
Nhứt thương, nhị nhớ, tam sầu,
Giả như ông Lưu Bị qua cầu Khổng Miêng.
Hột châu rớt xuống dĩa nghiêng,
Vui cười chúng bạn, sầu riêng một mình.
Em sầu còn chỗ thở than,
Anh sầu khác thể nhang tàn đêm khuya.
Trách ai ăn giấy bỏ bìa,
Làm cho bạn ngọc cách lìa đôi phang.
Thấy nàng anh cũng muốn thương,
Sợ e nhứt mã lưỡng cương khó cầm.
Bước vô vén sáo hỏi thầm,
Cớ sao em rơi luỵ ướt dầm gối loan.
Nương theo chéo áo bạn vàng,
Dầu sanh dầu tử mình nàng mà thôi.
Qua than với bậu hết lời,
Đừng tham núi ngọc đổi dời non tiên.
Đêm khuya trăng đã nằm nghiêng,
Vẳng nghe chó sủa, trống liền điểm tư.
960. Công Dã Trường thường ngày xe cát,
Sóng ba đào ai xét công cho.
Tiếng anh nho sĩ h5c trò,
Thấy sông thì lội không dò cạn sâu.
Nực ười con bướm có râu,
Thấy hoa hăm hở chầu đầu bắt hoa.
Đói lòng ăn trái khổ qua,
Nuốt vô thì đắng nhả ra bạn cười.
Ví dầu tình bậu muốn thôi,
Bậu phân cho phải đôi lời bậu ra.
Một tiếng em than hai hàng luỵ nhỏ,
Em có mẹ già biết bỏ cho ai.
Kể từ bạn với trước mai,
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
Em nói với anh anh như rựa chặt xuống đất, như Phật chất vào lòng,
Hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất ly,
Bây giờ em đặng chữ vu qui,
Em đặng nơi quyền quí, em nghĩ gì tới anh.
Vài ông tơ đôi ba chầu hát,
Khẩn bà nguyệt năm bảy đêm kinh,
Xui cho đôi đứa tôi thuận một tấm tình,
Dầu ăn hột muối, nằm đình cũng ưng.
Thiên sanh nhơn hà nhơn vô lộc,
Địa sanh thảo hà thảo vô căn,
Không hơn cũng kiếm cho bằng,
Có đâu thua sút bạn hòng cười chê.
970. Nước trong xanh chảy quanh hang dế,
Tiếng anh học trò, mưu kế anh đâu.
Đố ai nhảy xuống ao sâu,
Mà đo miệng cá uốn câu cho vừa.
Thay thương thay! Sức mạnh chở lừa,
Ngựa xe trâu ruộng đà thừa công phu.
Phụ mẫu tồn bất khả viễn du,
Toạ mật thất như thông cù,
Cách mặt em một tháng bằng ba thu,
Lòng anh mong vịnh chữ: hà chu hảo cừu.
Đã đành cắt tóc đi tu,
Một ngày cửa Phật mười thu cõi trần.
Thân em buôn bán tảo tần,
Lòng anh sao nỡ từ trần xuất gia.
Tại mẹ cha dứt tình tơ nguyệt,
Khuyên em đừng chực tiết uổng công.
Nơi thương cha mẹ biểu vong,
Nơi chẳng bằng lòng cha mẹ biểu ưng.
Bần cư náo thị vô nhân đáo,
Phú tại lâm sơn hữu viễn thân,
Bấy lâu nay em không biểu, anh cũng lại gần,
Bây giờ em sa cơ thất vận, em biểu mấy lần anh cũng không vô.
Muốn chồng đây để chồng cho,
Đây là thục nữ chẳng lo chi chồng.
980. Trăm năm trăm tuổi may rủi một chồng,
Dầu ai có thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
Giả tình say dò lòng thục nữ,
Giả khách qua đàng thử dạ quí nương.
Không chồng đi dọc đi ngang,
Có chồng thì cứ một đàng mà đi.
Mình xanh tay đỏ nút chì,
Cơm lương với muối sống thì là may.
Cùng nhau vã tiếng một ngày,
Ngãi nhân thẳm thẳm cũng tày ba thu.
Tích xưa dầu để sờ sờ,
Giữ trâu đọc sách, cầm cờ chăn dê.
Bấy lâu cách lựu xa lê,
Biết làm sao đặng trọn bề ái ân.
Tới đây khác xã lạ làng,
Thói quê anh cũng lạ, xin nàng khá thương.
Cơm Phiếu Mẫu gối Trần Đoàn,
Ngửa nghiêng song phụng, nhẹ nhàng nương luông.
Chỉ kim tương cha mẹ không thương,
Dứt đạo cang thường,
Anh cam bụng chịu,
Thôi nuông áo anh ra về, em bận bịu làm chi.
990. Dạo chơi bàn thạch thanh nhàn,
Hoạ may có gặp con bạn vàng thuở xưa.
Bến đò xưa con bóng đương trưa,
Buông lời hỏi bạn kén lừa nữa thôi.
Thang co nhiều nức khó trèo,
Đem nhau tới chốn hiểm nghèo bỏ nhau.
Đèn ai leo lét trên lầu,
Hay là đèn bà Quấc Mụ tụng kinh cầu cho Mã Đăng Luông.
Yếm em bốn dải lòng thòng,
Dải xanh dải đỏ, dải trắng dải vàng,
Cái sỏ của chàng một trăm ba mươi sáu đoạn,
Một đoạn bên nầy một đoạn bên kia,
Ví dầu trời đất phân chia,
Đôi ta như khoá với chìa đừng rơi.
Áo vải quao lựa sào mà vắt,
Tuy xấu mặt lòng lựa mặt gởi thân.
Tấm giấy vàng đề hàng chữ thọ,
Rước em về hai họ chứng minh.
Mục bất kiến nhĩ anh cũng tàng văn,
Thấy em có nghĩa mấy trăng anh cũng chờ.
Dốc một lòng lấy chồng hay chữ,
Để ra vào kinh sử mà nghe.
Muốn cho ông cống ông nghè,
Thiếu chi nhiêu học kết bè mà chơi.
1000. Từ khi rẽ một phan trời,
Dạ hằng khắn khắn nhớ lời minh sơn.
Trăm năm nhơn nghĩa vẹn toàn,
Tử sinh tạc dạ đá vàng nào phai.
Bao giờ sum hiệp trước mai,
Lòng nguyền kết tóc lâu dài trăm năm.
Đạo hằng tình ngỡi chí tâm,
Làm sao cho đặng ngọc cầm liền tay.
Bao giờ thuyền trở lái day,
Cờ về tay phất đẹp mày nở gan.
Một mình đã luận lại bàn,
Chạnh lòng thương nhớ bạn vàng cố tri.
Bao đành tử biệt sanh ly,
Ven trời góc biển thị phi không tường.
Ai làm cách trở sâm sương,
Ai làm rời rã oan ương dường nầy.
Buồn trông ngọn gió vòi mây,
Tương tư ai giải cho khuây buổi nào.
Đua chen thu cúc xuân đào,
Lựu phun lửa hạ mai chào gió đông.
1010. Chữ rằng: Vắn tổ tầm tông,
Cháu con nỡ bỏ cha ông chẳng màng.
Đánh cờ nước bí khôn toan,
Dầu anh khéo lượng trăm bàn cũng thua.