Thơ » Việt Nam » Cận đại » Hoàng Thúc Hội
Đăng bởi tôn tiền tử vào Hôm qua 00:30
Tưởng bấy lâu non nước rồng tiên, nung đúc nên đôi vì nữ kiệt;
Dẫu đương buổi gió mưa Âu, Á, trông mong vẫn một dạ quốc dân.
Tinh thần còn đó,
Cảm cách không ngần!
Nép nghĩ:
Hai đức đại vương sinh nơi tú các, rất mực hồng quần!
Nối dòng lương tướng, thay vị chân nhân.
Nam quốc khi xưa vận bĩ,
Bắc thuộc, nhiều nỗi gian truân!
Kẻ mày râu cũng vào tay trói buộc,
Trai anh hùng khôn giở mặt kinh luân!
May cội Lạc nẩy chồi hoa tỉ muội;
Ngắm vườn Hồng, nỡ để búi kinh trăn?
Nỗi riêng, quyết trả thù nhà: gan vàng, dạ sắt;
Thời loạn, mong yên việc nước: giáo nghĩa, gươm nhân.
Thành Đông kia phất ngọn cờ đào, bọn giặc Tô đã thúc đầu voi tung một chặp!
Hồ Tây nọ tuốt trần gươm bạc, thây tướng Mã rắp đem da ngựa bọc bao lần!
Nét phấn son tô điểm non sông, sáu mươi ngả dệt thêu nền cẩm tú,
Mũi kim chỉ dọc ngang trời đất, ba năm chầy lừng lẫy trận phong vân!
Châu Phong xây lớp thành vàng, tầng mây ngất nền vương, nghiệp bá;
Sông Hát tuôn làn sóng bạc, tiếng sấm vang thét giặc, la quân.
Vận dẫu gặp lòng trời tựa Hán;
Nghĩa vẫn không tôn đế theo Tần.
Cuộc thành bại mặc dầu kim cổ,
Trường liệt oanh dậy khắp xa gần.
Làn hồ Bạc, trăng rọi đêm thu, gương vằng vặc còn soi trên lịch sử;
Dấu cột đồng, bùn chôn đáy bể, sóng ầm ầm vẫn rợn kẻ cường lân!
Sông Hạc một dòng, nước chảy sạch trong hồn chính khí;
Lưng voi đôi tượng, thần thiêng hiển hiện bến Đồng Nhân!
Xuân qua, thu lại lửa hương, trải nghìn xưa, bao người sùng bái;
Kinh bắc, thành tây miếu mạo, suốt ba kỳ chung dạ tôn than.
[...]
Anh linh xin giáng miếu đình, chứng giám cho lòng thành điền bộc;
Phù hộ khắp trong xã hội, ơn nhờ được lên chốn đài xuân.