15.00
Nước: Việt Nam (Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn)
8 bài thơ

Thơ đọc nhiều nhất

Thơ thích nhất

Thơ mới nhất

Tác giả cùng thời kỳ

- Vũ Hoán (2 bài)
- Phùng Khắc Khoan (70 bài)
- Nguyễn Đức Hùng (2 bài)
- Phạm Như Giao (1 bài)
- Bùi Đình Tán (2 bài)

Dịch giả nhiều bài nhất

- Lương Trọng Nhàn (7 bài)
- Ngô Văn Phú (4 bài)
- Phạm Trọng Chánh (1 bài)
- Như Quy (1 bài)
Tạo ngày 16/12/2008 17:07 bởi hongha83
Hà Nhậm Đại 何任大 (1525-?) hiệu Hoằng Phủ, người huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Đỗ tiến sĩ, làm quan với nhà Mạc đến chức thượng thư. Tác phẩm có Lê triều khiếu vịnh thi tập, làm theo thơ vịnh sử của Đặng Thoát Hiên đề vịnh công thần, võ tướng, danh nho, tiết nghĩa, sứ thần..., từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Đế, 106 bài thơ thất ngôn, tuyệt cú, mỗi bài vịnh một nhân vật, bài Tựa viết năm 1590. Hà Nhậm Đại nối tiếp thể vịnh sử của Đặng Minh Khiêm, “nêu những sự tích triều Lê đáng để khuyên răn” (Tựa), nhằm giáo huấn người đời theo đạo đức chính thống. Tác giả tự hào về anh hùng hào kiệt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, các nhà văn hoá, nhà kinh bang tế thế có công dựng nước, an dân, các sứ thần làm trọn mệnh vua, rạng rỡ uy nước. Là bầy tôi nhà Mạc, Hà Nhậm Đại nhận định các nhân vật triều Lê sơ có phần xác đáng mặc dù “khí phách âm điệu trong thơ ông không bằng Đặng Thoát Hiên (tức Đặng Minh Khiêm)” (Lê Quý Đôn).

 

Lê triều khiếu vịnh thi tập - 黎朝嘯詠詩集