☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Tạ Tỵ (1921-2004) tên thật là Tạ Văn Tỵ, sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921 tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu tại Hà Nội. Trong giấy khai sinh của ông ghi ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn mất một năm. Từ khi còn là một sinh viên, Tạ Tỵ đã thành danh khá sớm. Năm 1941, nhờ nhận một giải thưởng tranh, ông được đến thăm kinh đô Huế.
Năm 1943, ông tốt nghiệp tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Và cũng năm này, bức tranh Mùa hè của Tạ Tỵ đoạt một giải thưởng của Salon Unique.
Năm 1946, chiến tranh nổ ra giữa Việt Minh và Pháp, Tạ Tỵ cùng với nhiều hoạ sĩ Việt Nam khác, đã tham gia mặt trận Việt Minh chống Pháp và ông là người thầy dạy mỹ thuật đầu tiên trong Liên khu 3. Tác phẩm Nhớ Hà Nội năm 1947 (20×25 cm) được Tạ Tỵ vẽ trong giai đoạn này.
Tháng 5 năm 1950, Tạ Tỵ rời khỏi vùng kháng chiến để trở về Hà Nội. Ông viết cho một người bạn rằng “Cách suy nghĩ của tôi không hợp với kháng chiến sau mấy năm chung sống với họ” [1]. Bắt đầu từ đầu thập niên 1950, ngoài tài vẽ chân dung hí hoạ, ông còn sáng tác trên nhiều lĩnh vực khác, như: truyện, thơ, kịch bản, bút ký...
Năm 1951, ông triển lãm 60 bức tranh tại Hà Nội. Sau 1954, ông vào Nam và sống ở Sài Gòn. Ở đây ông đã phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà với cấp bậc sau cùng là trung tá trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị. Năm 1956, ông triển lãm hơn 60 bức tranh đầu tiên tại Sài Gòn. Và năm 1961, ông triễn lãm lần thứ hai 60 bức tranh lập thể và trừu tượng cũng ở nơi đó.
Năm 1975, sau thời gian học tập cải tạo, ông cùng vợ con vượt biển đến Malaysia và đến định cư tại Hoa Kỳ. Trong thời gian sống tại nước ngoài, Tạ Tỵ lại tiếp tục sáng tác. Năm 2003 sau khi vợ ông qua đời tại Mỹ, ông quyết định trở về Việt Nam với ước vọng sống những ngày cuối cùng ở quê hương mình. Vào 10 giờ sáng 24 tháng 8 năm 2004 (mùng 9 tháng 7 năm Giáp Thân), Tạ Tỵ đã từ trần tại nhà riêng số 18/8 đường Phan Văn Trị, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, sau một cơn bệnh kéo dài do tuổi già, hưởng thọ 83 tuổi.
Sự nghiệp của ông, về hội hoạ:
- 1951: triển lãm 60 bức tranh tại Hà Nội.
- 1956: cuộc triển lãm hơn 60 bức tranh đầu tiên tại Sài Gòn.
- 1961: Cuộc triễn lãm lần thứ hai 60 bức tranh lập thể và trừu tượng ở Sài Gòn.
Tác phẩm của ông được trưng bày tại nhiều bảo tàng viện nghệ thuật quốc tế ở Tokyo, San Francisco, New York và Paris.
Về văn chương:
- Những viên sỏi (tập truyện, NXB Nam Chi tùng thư, 1962)
- Yêu và thù (tập truyện, NXB Phạm Quang Khai, 1970)
- Mười khuôn mặt văn nghệ (nhận định văn học, NXB Nam Chi tùng thư, 1970)
- Phạm Duy còn đó nỗi buồn (NXB Văn sử học, 1971)
- Cho cuộc đời (thơ, NXB Khai phóng, 1971)
- Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay (nhận định văn học, NXB Lá bối, 1972)
- Giờ (tập truyện, NXB Gìn vàng gởi ngọc, 1972)
- Nghĩ (tạp văn, NXB Khai phóng, 1974)
- Ðịa ngục (hồi ký, NXB Thằng mõ, 1985)
- Khuôn mặt văn nghệ - đã đi qua đời tôi (hồi ký, NXB Thằng mõ, 1990)
- Nhà tôi (tập truyện, NXB Xuân Thu, 1992)
Tạ Tỵ là một nghệ sĩ đa tài. Ban đầu ông có vẽ sơn mài, cùng thời kỳ với những hoạ sĩ như Nguyễn Gia Trí, Lê Phổ, Nguyễn Tư Nghiêm... Nhưng ông được biết đến nhiều hơn cả khi đi theo trường phái tranh lập thể. Theo hoạ sĩ Trịnh Cung, Tạ Tỵ là người gắn bó và đi đầu trong phong cách hội hoạ lập thể ở Việt Nam từ thập niên 1940 đến 1960; sang thập niên 1970, ông chuyển sang phong cách trừu tượng.
Tuy sống trong thời kì hai miền Việt Nam chia cắt, nhưng người ta không tìm thấy bóng dáng chiến tranh trong hội hoạ Tạ Tỵ. Một mảng tranh được công chúng biết đến nhiều là những bức ký hoạ do Tạ Tỵ vẽ về những nghệ sĩ mà ông quen biết. Những bức chân dung các nghệ sĩ như Đái Đức Tuấn, Vũ Hoàng Chương, Trịnh Công Sơn... có thể tìm thấy nhiều trên sách báo miền Nam Việt Nam trước 1975 và được giới nghệ sĩ đánh giá cao.
Ngoài hội hoạ, ông còn nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực sáng tác: truyện, thơ, kịch bản, bút ký... Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, Tạ Tỵ đã để lại nhiều tác phẩm với các thể loại khác nhau.
Ðề tựa cho tuyển tập truyện ngắn Những viên sỏi của Tạ Tỵ xuất bản lần đầu tiên, Nhà văn Nguyễn Hoạt viết: “Tôi nhận thấy trong con người Tạ Tỵ cũng như trong tác phẩm văn chương của anh, cái đáng yêu nhất, đáng quý nhất vẫn là ‘Tình thương’ chân thành, một ‘Tình thương’ do sự khích động qua xúc cảm mà bật ra, chứ không phải là một thứ văn chương hời hợt, giả tạo.”