0.1. Có một số sự việc mới nhìn thoáng qua tưởng là những sự trùng hợp ngẫu nhiên.
- Cuộc diễn thuyết đầu tiên hô hào bỏ lối học cử nghiệp, noi gương duy tân của Nhật Bản, tức dọn đường công luận cho Đông Kinh nghĩa thục ra đời mấy tháng sau đó, diễn ra ngày Rằm tháng Giêng năm Đinh Mùi (1907) tại đền Ngọc Sơn; diễn giả là hai thanh niên đã sớm thành đạt chính là trong lối học cử nghiệp: cử nhân Dương Bá Trạc và cử nhân Lương Trúc Đàm, con trai cả của Lương Văn Can.
- Trụ sở Đông Kinh nghĩa thục đặt tại nhà Thục trưởng Lương Văn Can ở đầu phố hàng Đào (nhà số 4, sau thêm nhà số 10), cách đền Ngọc Sơn chỉ năm chục mét;
- Hơn mười lăm năm trước, khi bắt đầu nghiên cứu về tiến sĩ Vũ Tông Phan và hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn trên hồ Hoàn Kiếm, chúng tôi đọc thấy trên một tấm bia gắn ở tường đền Ngọc Sơn tên họ của cử nhân Lương Văn Can và hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền, hai yếu nhân của phong trào Duy tân - Đông Kinh nghĩa thục.
Những sự việc trên sẽ không còn là ngẫu nhiên nếu lần tìm ra được các mối liên hệ truyền thống về tư tưởng và phương thức hoạt động của tầng lớp sĩ phu ở hai đầu thế kỷ XIX và XX.
0.2. Trong việc nghiên cứu về tầng lớp sĩ phu Việt Nam trong thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX nói chung và nói riêng là về phong trào duy tân của họ cùng trường Đông Kinh nghĩa thục hồi đầu thế kỷ XX, người ta thường chỉ lần ngược trở lại xa nhất là đến giữa thế kỷ XIX với một số bậc tiền bối của họ về mặt tư tưởng như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, và gần đây - cả Đặng Huy Trứ, Bùi Viện, Nguyễn Tư Giản, Phạm Phú Thứ... Người ta thường chỉ ra hai nhân tố trực tiếp tác động làm nảy sinh phong trào duy tân là: 1) sự thất bại hoàn toàn của đường lối khởi nghĩa vũ trang chống lại ách thống trị của thực dân Pháp: 2) ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng duy tân ở Nhật Bản và Trung Quốc, du nhập vào Việt Nam qua các “tân thư”.
Song như vậy chưa thể giải đáp vấn đề về “sự cắm rễ trong quần chúng”, “bề dày xã hội” của phong trào duy tân phát triển nhanh chóng và rộng khắp, chẳng những “mở màn cho hàng loạt cuộc nổi dậy” trong những năm 10 - 30 của thế kỷ XX, mà còn làm cơ sở cho các trào lưu triển khai uyển chuyển tiếp theo như phổ biến “kinh giáng bút” của chư vị thánh thần thuần tuý dân tộc (Đào Duy Anh), cải cách hệ thống giáo dục tiểu học và vận động đổi mới sinh hoạt ở làng xã, truyền bá chữ Quốc ngữ, phát triển báo chí và hội đoàn ở thành thị... - tất cả đã làm nên “một cuộc cách mạng thầm lặng” (Hoàng Xuân Hãn), tạo nên “chất men văn hoá” (P. Brocheux) cho cuộc cách mạng long trời lở đất Tháng Tám năm 1945. Vậy thì phải chăng ngay trong xã hội Việt Nam hồi cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, trước khi xuất hiện hai nhân tố hiển hiện và thúc đẩy tích cực trên đây, từng có những “mạch ngầm” nào đó chuẩn bị chất đất cho những mầm mống canh tân nảy nở?
Bài luận văn nhỏ này của chúng tôi thử góp một lời vào câu giải đáp vấn đề về cội nguồn văn hoá-xã hội sâu xa của phong trào Duy tân ở Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX.
1.1. Ba chục năm cuối thế kỷ XVIII là giai đoạn đầy những biến động vũ bão trong lịch sử giải đất có tên chung là Việt Nam. Triều đình của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và của chúa Nguyễn ở Đàng Trong đều thối nát và rối loạn, các phe cánh nội bộ tranh giành ngôi báu tàn sát lẫn nhau. Trong tình hình ấy anh em Tây Sơn nổi dậy như một cơn lốc lần lượt cuốn phăng nền thống trị hơn hai trăm năm của họ Nguyễn (1785), rồi họ Trịnh (1786), tiếp đó bằng một trận tốc chiến tốc thắng tống cổ hai mươi vạn quân xâm lược nhà Thanh ra khỏi bờ cõi (1789), đưa người “áo vải” (chỉ nông dân, dân thường) lên ngồi hiên ngang trên ngai vàng, có lẽ cũng vẫn trong tư thế vén vạt áo lên, để lộ một chân trần (chân kia đi ủng!) như bức tượng Đức Ông ở chùa Bộc gần gò Đống Đa mà người ta cho là miêu tả Quang Trung. Nhưng rồi đấng minh quân đã đột ngột từ trần (1892) mà chưa kịp thực thi một số cải cách tiến bộ về kinh tế và văn hoá do ông đề xuất mong làm căn bản cho triều chính mới, khả dĩ thay đổi “bản chất quân phiệt và chỉ có thể tồn tại bằng chế độ quân chính” của nhà Tây Sơn (Tạ Chí Đại Trường). Thiếu cái căn bản ấy nên một triều đại hứa hẹn trở thành tiến bộ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam sớm sụp đổ, đúng như một danh sĩ triều Nguyễn đã viết về những kẻ thừa kế ông vua anh hùng:
Khước tiếu Tây Sơn nghiệt
Vô bản nhất triêu khuynh
(Lại nực cười cho lũ nghiệt chướng nhà Tây Sơn!
Không có gốc nên một sớm một chiều đã sụp đổ
- Nguyễn Văn Siêu)
1.2. Chế độ quân chính “có bản chất quân phiệt” chưa kịp lột xác mà mất chủ tướng thì tất sinh nội loạn, tàn sát lẫn nhau, làm suy yếu triều đại, tạo thuận lợi cho các thế lực thù địch trỗi dậy, dẫn đến cuộc nội chiến kéo dài Tây Sơn - Nguyễn Ánh. Tận dụng được ưu thế của kỹ thuật phương Tây và tiền bạc cùng lực lượng của thương nhân người Hoa, và - quan trọng hơn - lợi dụng được tâm lý sớm thất vọng của sĩ phu và dân chúng đối với triều Tây Sơn, thể hiện thành những cuộc ly khai trong hàng ngũ tướng sĩ của vua Quang Toản, Nguyễn Ánh đánh chiếm kinh đô Phú Xuân năm 1801 và năm 1802 tiến ra Bắc thành tiêu diệt vương triều của những người áo vải, thống nhất được đất nước sau ngót hai trăm năm phân tranh.
Khi tiến vào Bắc thành, Gia Long, vị vua sáng lập tân triều tuyên bố từ nay thực thi “vương đạo”, thiết lập nền “văn trị”, và quả đã làm được như vậy trong khoảng hai chục năm đầu triều. Nhưng vốn ra đời trong nghịch cảnh nội chiến, triều Nguyễn bản thân là “nghịch lý của lịch sử”: “một nhà nước phong kiến tập quyền vốn đã không còn vai trò lịch sử ngay khi nó mới ra đời” (Cao Xuân Huy), bởi vậy chỉ có thể tuyên bố “vương đạo”, “văn trị”, nhưng trên thực tế buộc phải thực thi “bá đạo”: cai trị bằng đàn áp khốc liệt (đối với cả các vị huân thần như quận công Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành), bằng bóc lột sưu cao thuế nặng, bắt phu bắt lính triền miên, gây nên sự phẫn nộ trong các tầng lớp xã hội, khiến “giặc dã” lại nổi lên khắp nơi - một điều
Đại Nam thực lục, bộ chính sử của Quốc sử quán triều Nguyễn, cũng không thể che giấu. Thơ văn của các danh sĩ đầu triều Nguyễn Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát hơn một lần vẽ lên bức tranh hiện thực sinh động về thành thị trống vắng, làng xóm tiêu điều, dân tình điêu đứng trong ba chục năm đầu triều Nguyễn.
Lợi dụng tình thế “cùng tắc biến” các thế lực chống đối cát cứ của Nông Văn Vân ở Cao Bằng - Tuyên Quang, Lê Văn Lương ở Hoà Bình - Ninh Bình - Thanh Hoá, Lê Văn Khôi ở Gia Định gần như cùng một lúc vào năm 1833 đã phát động 3 cuộc khởi nghĩa lớn. Nhưng với bộ máy quân phiệt vận hành ngày càng hiệu quả qua kinh nghiệm của cuộc nội chiến ba chục năm triều Nguyễn đã dập tắt được và hoàn thành nền thống trị chuyên chế trên cả nước. Tuy nhiên, nổi loạn và khởi nghĩa lớn nhỏ vẫn tiếp tục nổ ra trong suốt triều Nguyễn, có đến 500 cuộc, riêng thời Minh Mạng (1820 - 1841) 250 cuộc (Đại cương lịch sử Việt Nam, T.I)! Chế độ quân chủ chuyên chế nhà Nguyễn tiếp tục tồn tại với “một loạt khủng hoảng khó lòng hàn gắn nổi như khủng hoảng về tư liệu sản xuất, về lực lượng sản xuất, và nhất là về nhân tâm” (Cao Xuân Huy).
2.0. Những biến động vũ bão làm lung lay đến tận nền tảng của chế độ xã hội vốn được định hình vững chắc trong khuôn mẫu Nho giáo chính thống hơn ba trăm năm, từ đầu thế kỷ XV khi Lê Lợi thiết lập triều Lê sơ đến tận giữa thế kỷ XVIII. Những xáo trộn ghê gớm trong có ba chục năm cuối thế kỷ ấy, với những thăng trầm nhanh đến chóng mặt trong số phận của mọi giai tầng từ vua chúa cho đến đám thường dân áo vải (“lên voi xuống chó” - như dân gian vẫn nói), sự can thiệp hiệu quả của kỹ thuật và vũ khí phương Tây do các cha cố đạo Gia-tô đem đến, cùng tiền bạc “chảy vào như nước” do giao thương với ngoại quốc, một mặt tạo nên sự phồn thịnh ở một số thành thị, nhưng mặt khác cũng làm bại hoại luân thường đạo lý v.v... - tất cả không thể không tác động đến tư tưởng và tâm lý của mọi người, trước hết là của tầng lớp vẫn được coi là những kẻ hướng đạo “tứ dân” (sĩ, nông, công, thương) - các môn đệ của Khổng môn: Thánh hiền đã dạy họ phải “tiên thiên hạ chi ưu” (lo, tức suy nghĩ, trước mọi người) mà! Nhiều tín điều của Nho giáo chính thống (thường gọi là Tống nho) như “trung quân”, “tam cương ngũ thường”, “nông vi bản”, “trọng nông, khinh thương” v.v... không đứng vững được trước những thử thách mới của thời đại. Các Nho sĩ buộc phải xét lại và thích nghi lý thuyết chính trị - đạo đức Khổng Mạnh với thực tế mới theo những phương châm khác nhau, tuỳ hoàn cảnh mỗi nơi và của mỗi người.
2.1. Bộ phận sĩ phu giai đoạn này được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn cả là sĩ phu thời Tây Sơn, nói chính xác hơn là bộ phận hợp tác với triều đại Tây Sơn. Mặc dù về triều đại Tây Sơn đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu, gần đây vẫn có một số học giả nêu vấn đề phải xét lại các nhận định về thời kỳ lịch sử này do trong các công trình trước đây chưa khai thác được hàng ngàn trang tư liệu đến nay vẫn nằm im trong các kho lưu trữ của nước ngoài. Hy vọng rằng việc khai thác khối tư liệu đó sẽ giúp đính chính và bổ sung các nhận định về giai đoạn lịch sử sôi động này, kể cả về những diễn biến tư tưởng và tâm tư của nhóm Nho sĩ hợp tác với triều Tây Sơn. Cho đến nay, trên đại thể những nét đặc trưng của nhóm Nho sĩ này thường được đề cập là: tinh thần tự hào dân tộc, niềm lạc quan tin tưởng vào khả năng chấn hưng xã hội đang suy đồi - chấn hưng trên nền tảng “nhân nghĩa”, theo đường hướng “trung chính” (tức ngay thẳng, đúng đắn) của Khổng Mạnh (xin chú ý tên gọi cơ quan tu thư mà La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp phụ trách: Sùng chính viện), thái độ nhập thế, mong muốn tham gia canh tân đất nước trong buổi đầu và sự thất vọng nhanh chóng, niềm u hoài khi triều Tây Sơn sớm sụp đổ (Nguyễn Lộc).
2.2. Về nhóm sĩ phu Gia Định cũng đã có cả một một chuyên khảo đặc sắc. Vốn có nguồn gốc đặc biệt (người Hoa, gọi là người “Minh hương phản Thanh phục Minh” đến Đàng Trong tỵ nạn từ 1679), sau gần trăm năm họ đã trải qua một quá trình “Việt hoá” nhất định, nhưng vẫn giữ đầu óc thực tiễn, nhạy bén trên thương trường, cùng phong cách riêng “Nho mà không Nho, không Nho mà Nho” bởi nếp sống hội nhập cộng đồng người Việt - tất cả đã giúp họ phát huy vai trò chính trị - xã hội tích cực trong thời kỳ Nguyễn Ánh còn đấu tranh dựng cơ đồ (1778 - 1802). Nhưng rồi bước sang thời kỳ sau (1802 - 1862), sau khi triều Nguyễn mà họ đã dốc hết tài lực phò tá, được thiết lập thì họ bị phân hoá rõ rệt, bộ phận cầm quyền bắt đầu “tha hoá”, “bị trượt dài cả về tư tưởng lẫn chính trị” (Cao Tự Thanh).
Về hai nhóm Nho sĩ trên chúng tôi xin miễn đề cập chi tiết, để dành thời gian bàn kỹ hơn về nhóm sĩ phu Hà thành đã sáng lập hội Hướng Thiện.
2.3. Nhóm sĩ phu mà chúng ta định xem xét đã lâm vào một nghịch cảnh éo le hơn so với hai nhóm trên, chính vì thế diễn biến tư tưởng của họ ở chiều sâu hơn, cũng lý thú hơn từ khía cạnh chúng ta quan tâm, nhưng lại hầu như chưa được nghiên cứu. Người ta mới chỉ chú ý đến một nhân vật trong số họ là “Thánh Quát”, tức Cao bá Quát, nhưng chủ yếu mới khai thác từ giác độ tham gia khởi nghĩa (1853 - 1854) chống triều Tự Đức, sớm thất bại và hy sinh. Cuốn
Thơ văn Cao bá Quát, tái bản đã ba/bốn lần, vẫn hoàn toàn không đả động gì đến hội Hướng Thiện; có nhắc đến Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý v.v... thì cũng chỉ thuần tuý như những bạn thơ của Thánh Quát. Ngay cả về “Thần Siêu”, tức Nguyễn Văn Siêu, cho đến nay vẫn chưa có luận văn chuyên khảo nào ngoài vài bài mang tính chất truyện danh nhân và hai công trình dịch thuật đơn thuần, thiếu cả những chú giải cần thiết.
Nhóm sĩ phu này vốn xuất thân trong những gia tộc Nho giáo “nòi”, tức có truyền thống nhiều đời khoa bảng, được hấp thụ tinh hoa đất Thăng Long “nghìn năm văn hiến”, thấm nhuần đạo lý Khổng Mạnh, nền nếp Nho gia, như thường nói, cùng dòng sữa mẹ. Họ dùi mài kinh sử đương nhiên để “xuất môn”, đi thi đỗ đạt, ra phò vua giúp nước. Khác với các nhóm Nho sĩ Tây Sơn và Gia Định, họ sinh ra vào thời khi cuộc chiến đã vào hồi chót quyết liệt rồi nhanh chóng kết thúc, trưởng thành trong khoảng hai chục năm đầu khi mà tân triều đại, để tranh thủ sĩ phu Bắc Hà, thi thố một số biện pháp “vương đạo”, nên đã nhen nhóm ở họ ảo tưởng về một nền “văn trị”. Họ ghi nhận triều Nguyễn đã thống nhất được đất nước sau hai trăm năm chia cắt làm đôi, tức đã làm được việc “hợp lòng Trời”, hay nói theo ngôn ngữ ngày nay - phù hợp quy luật lịch sử và nhu cầu của sự phát triển xã hội.
Thế nhưng nếu như nhóm sĩ phu ủng hộ Tây Sơn có lý do chính đáng để vứt bỏ quan niệm “trung quân” chính thống (“tôi trung không thờ hai chúa”), đoạn tuyệt với hôn quân Lê Chiêu Thống rước quân ngoại bang về dày xéo Tổ quốc, dứt khoát ra phò giúp minh quân “áo vải cờ đào” Quang Trung để đánh đuổi quân xâm lược, canh tân nước nhà; nếu như sĩ phu Gia Định ở thời kỳ đầu dốc tài lực phục vụ Nguyễn Ánh vì những lợi ích thực tế mà ông ta đã đem lại cho họ và có thể sẽ ban phát nhiều hơn một khi giành được phần thắng - thì nhóm sĩ phu chúng ta đang đề cập không thể một lòng thanh thản phục vụ cái tân triều nói “vương đạo”, nhưng làm “bá đạo”. Rõ ràng đạo lý “nhân nghĩa”, chí hướng “trung chính” khó mà đem thực thi dưới tân triều chuyên chế. Việc tham hiệp Thái Nguyên Vũ Tông Phan vừa mới thử “làm quan chỉ chuyên chú việc nhân từ” (
Đại nam liệt truyện) nên đã “không tâu trình về bọn “giặc cướp” trong hạt trấn, đến khi gia hạn cho bắt lại không bắt được bao nhiêu”, liền bị cách chức (
Đại Nam thực lục) đã cho họ thấy:
Học cổ làm quan nay chẳng hợp
(Vũ Tông Phan - Ngẫu cảm - 1831)
Là những môn đồ chân chính của Khổng Tử, họ bất bình. Họ chứng kiến cảnh dân đói khát tụ tập nhau làm loạn, nhưng họ cũng không thể không thấy mọi sự phản kháng lập tức bị đàn áp thảm khốc. Chống lại triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ khác nào “lội ngược dòng nước xiết”. Đó là một ẩn ý mà tiến sĩ Nguyễn Văn Lý gửi gấm trong cái điển cố quen thuộc “cấp lưu dũng thoái” ở bài văn tế Vũ Tông Phan sau này (1851): “Phan tự trong lòng biết rõ giữa dòng nước xiết phải dũng cảm thoái lui” (chúng tôi nhấn). Phương châm ứng xử này trước thời thế của Vũ Tông Phan và các bạn cùng chí hướng trong hội Hướng Thiện sẽ còn truyền đến lớp sĩ phu liên quan Đông Kinh nghĩa thục như Nguyễn Trọng Hợp, nên xin phân tích rõ hơn.
Trước hết, xin lưu ý rằng nhóm sĩ phu này ưa dùng cặp “hành - tàng” (hành động hay ẩn đi, nuôi chí khí để chơ thời cơ?) hơn “xuất - xử” (xuất chính, tức ra làm quan hay ở nhà?). Dùng chữ “tàng” họ đương nhiên ngầm nhắc nhở nhau câu trong Kinh dịch: “Quân tử tàng khí ư thân đãi thì nhi động” (người quân tử ẩn giấu chí khí nơi mình, chờ thời mà hành động). Chẳng phải ngẫu nhiên, sau khi họ sáng lập hội Hướng Thiện thì vị Hội trưởng đầu tiên cho khắc trên tấm bia nêu tôn chỉ của hội hai câu thơ:
Gươm báu mới mài ngời ánh sáng
Hành hay tàng vẫn rạng muôn phương
(Vũ Tông Phan - Ngọc Sơn đế quân từ ký, 1843)
Tức thị là chữ “tàng” của họ không có nghĩa “không hành động” mà là làm sao, hành động thế nào để cái chí khí Nho gia mà thời thế buộc phải tàng đó vẫn toả sáng, vẫn ảnh hưởng khắp nơi nơi. Luật lệ đời Minh Mạng rất nghiêm khắc đối với việc cáo ốm xin nghỉ hưu (Đại nam điển lệ toát yếu). Vũ Tông Phan trong một bài thơ gọi sự bắt buộc làm quan như vậy là “cái nợ quan trường” và không ai lường trước được “cái nợ quan trường biết mấy niên?”, có người may mắn chỉ phải trả món nọ ấy 7 năm như chính ông Phan, có người phải mang nó gần như suốt đời như Nguyễn Văn Lý. Trong nghịch cảnh ấy của họ thì quan niệm trên đây về “hành - tàng” là một đối sách hiệu quả đối với sự ràng buộc của nhà nước chuyên chế: họ có thể “tàng” ngay giữa triều đình, nghĩa là vẫn tiến hành những hoạt động theo một phương thức riêng nhằm thực hiện chí hướng chung của họ. Trên thực tế tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, phó bảng Nguyễn Văn Siêu, và cả cử nhân Cao Bá Quát (cho đến khi không “tàng” được nữa vào cuối đời, buộc phải hành một cách tuyệt vọng!), đều đã phải ứng xử như vậy để thực hiện được phần nào đạo “nhân nghĩa” và chí hướng “trung chính” của Nho gia mà họ mong muốn giữ vững. Nguyễn Văn Lý từng viết trong bài thơ năm 1835 gửi Vũ Tông Phan và cử nhân Phạm Hội (1) (1791 - 1854), người cáo quan về mở trường dạy học trước cả tiến sĩ họ Vũ: “Dùng được năng lực đúng chỗ, ấy là làm nên công danh sự nghiệp”. Bản thân ông Phan trong thư năm 1838 gửi tiến sĩ Lê Duy Trung (1795 - 1863) sau đêm chia tay tiễn Trung vào Huế nhậm chức, cũng từng cảnh tỉnh: “Điều đáng lo nhất trong thiên hạ, không gì bằng sức không đủ mà gắng gượng làm”. Ông muốn nhắn nhủ bè bạn nơi “gần mặt trời dễ rát mặt” về chữ “tàng” của họ chăng?
Nhưng điều mới mẻ nhất, căn bản nhất trong quan niệm “hành - tàng” của nhóm sĩ phu Hà thành đầu triều Nguyễn là họ không “tàng” đơn lẻ mà tập hợp nhau lại trong một tổ chức văn hoá - xã hội, điều chưa từng có trong tầng lớp sĩ phu Việt Nam các đời trước. Trong các đời trước chỉ thấy các “văn hội”, được thành lập theo lệ chung, gồm những người theo Nho học, để xuân thu nhị kỳ tế lễ Khổng Tử cùng chư vị tiên hiền địa phương. Sử sách, tư liệu văn học, gia phả cũng nhắc đến nhiều “tao đàn”, “thi xã” tập họp những người yêu thơ để ngâm vịnh, xướng hoạ với nhau. Nhưng một tổ chức quy mô, tiến hành những hoạt động văn hoá - xã hội rộng rãi như hội Hướng Thiện của sĩ phu Hà thành hồi đầu thế kỷ XIX thì chưa thấy một tài liệu nào ghi nhận là từng tồn tại ở các thế kỷ trước.
3.1. Xưa nay đều thế, làm sao có thể thực hiện sự nghiệp giáo dục có kết quả trong một môi trường văn hoá - xã hội suy đồi như Vũ Tông Phan đã miêu tả sinh động trong bài thơ
Đến đầu địa giới Hà Nội, sáng tác năm 1831 khi từ kinh đô Huế ra nhậm chức Giáo thụ phủ Thuận An ở Bắc Ninh. Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý trong lời chú cho một bài thơ sáng tác năm 1839 dường như đã thay mặt cả nhóm sĩ phu này phát biểu thành lời nỗi băn khoăn chung của họ: “Trung hưng vận nước mà không chấn chỉnh đạo lý làm người được sao?” (
Cảm tác trong khi ốm nghỉ ở nhà - 1839).
Đạo lý làm người chỉ có thể chấn chỉnh cùng với việc cải thiện môi trường xã hội, chấn hưng văn hoá, mà sự nghiệp này thì từng cá nhân riêng rẽ, từng ngôi trường biệt lập, như ở trong các đời trước, không thể làm được. Đó là nguyên do thúc đẩy họ phải tập họp nhau lại.
Nhưng Văn hội, tổ chức truyền thống từ xưa của Nho sĩ, có những khuôn khổ quá chật hẹp, không thể đáp ứng những mục tiêu của Vũ Tông Phan cùng các đồng chí. Theo Bạ tịch Văn chỉ Thọ Xương, khắc in năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), tính đến năm 1836 là năm khởi công xây dựng Văn chỉ, Văn hội mới có 39 thành viên, gồm 2 tiến sĩ (Phan và Lý), 7 cử nhân (Siêu bấy giờ cũng chỉ mới đỗ cử nhân) và 30 tú tài. “Bạ tịch” này được khắc tiếp trong những năm sau, cho biết tính đến năm 1870 Văn hội Thọ Xương có 9 tiến sĩ và phó bảng, 27 cử nhân, 105 tú tài, tổng cộng141 người - đó là một số lượng không nhỏ trong có ngót bẩy chục năm khoa cử Hán học ở một huyện (khoa thi hương đầu tiên dưới triều Nguyễn là vào năm 1807), nhưng còn quá ít cho những hoạt động văn hoá xã hội rộng khắp, không chỉ đóng khung trong huyện Thọ Xương. Hơn nữa, bản Ước lệ (tức điều lệ do các thành viên cùng thoả thuận), cũng khắc in trong quyển bạ tịch văn chỉ Thọ Xương nói trên, cho thấy Văn hội Thọ Xương không thể vượt ra ngoài quy chế chung của nhà nước phong kiến quy định cho các hội tư văn là chỉ gồm những người thường trú tại địa phương, có khoa danh từ tú tài trở lên và chỉ tiến hành những nghi lễ xuân thu nhị kỳ cúng tế Khổng Tử cùng chư vị tiên hiền. Thực tế đó thúc đẩy những người sáng lập Văn hội Thọ Xương nghĩ đến một tổ chức rộng rãi hơn về thành phần, địa bàn và phóng khoáng hơn trong hoạt động.
3.2. Thời điểm thành lập hội Hướng Thiện cho đến nay chúng tôi vẫn chưa xác định được chính xác. Trên tài liệu sớm nhất bắt gặp danh xưng “Hướng Thiện hội” là bản sách khắc gỗ in năm 1836
Giác thế tập yếu (tập kinh “giáng bút” của Văn Xương đế quân khuyên làm điều thiện). Sau đó, cái tên “Hướng Thiện hội” được khắc trên bia
Ngọc Sơn đế quân từ ký. Chỉ có thể suy đoán rằng Hội này với tôn chỉ mục đích như sẽ trình bày dưới đây, không thể được thành lập trước Văn hội Thọ Xương vốn là nòng cốt của nó và Hội trưởng đầu tiên không phải ai khác mà cũng chính là Vũ Tông Phan, người đứng đầu Văn hội Thọ Xương. Cũng chưa tìm được bất kỳ văn bản nào cho biết số lượng và danh sách toàn bộ thành viên của Hội. Tấm bia
Ngọc Sơn Đế quân từ ký chỉ nói chung chung là Hội gồm những người “trong khoa mục”, tức theo Hán học. Bia cũng cho biết đích xác thời gian hội Hướng Thiện khởi công cải tạo ngôi chùa tư gia trên đảo Ngọc Sơn trong hồ Hoàn Kiếm và xây xong nó thành đền thờ Văn Xương, vị thần (ngôi sao) văn chương và khoa cử, đồng thời dùng làm trụ sở cho hoạt động văn hoá của mình - đó là mùa đông năm 1841 - mùa thu 1842. Trên bia
Hợp tư tính thị bi ký, khắc tên gần 200 người và đơn vị tự nguyện đóng góp tiền phụ thêm với kinh phí do quỹ của Hội bỏ ra để xây đền. Trong số đó chỉ có 31 người là thành viên của hội Hướng Thiện, chắc hẳn đó chỉ là bộ phận nhỏ hội viên giầu có. Tuy tấm bia không cho biết tổng số lượng thành viên hội Hướng Thiện, nhưng nó cung cấp một số thông tin quan trọng, liên quan đến tính chất của hội:
- Trong 31 hội viên đó có một số người sinh sống chẳng những ở các huyện khác thuộc tỉnh Hà Nội mà còn cả ở một số tỉnh lân cận như Bắc Ninh, Sơn Tây, như vậy địa bàn hoạt động của hội Hướng Thiện rộng hơn Văn hội Thọ Xương rất nhiều.
- Chỉ có 4/31 người đỗ tú tài, rõ ràng việc “xem nhẹ” khoa danh đã mở rộng thành phần của hội Hướng Thiện so với khuôn khổ chật hẹp của Văn hội Thọ Xương.
- Có người góp tiền không ghi địa chỉ huyện, xã dưới họ tên mình mà lại lấy tên cửa hiệu buôn, ví dụ: Ban Thế Vinh - hiệu Nguyên Xương. Trong phần khắc tên họ của khách thập phương, tức những người ngoài hội cũng thấy tên một số cửa hiệu nổi tiếng ở Hà Nội xưa như Hưng Ký, Dụ Hưng. Đây là một điều hoàn toàn mới: hội Hướng Thiện tập hợp Nho sĩ với doanh nhân trong một tổ chức.
Cũng nên nói rõ thêm về mối liên kết giữa Vũ Tông Phan và Bùi Huy Tùng, người đã hiến hơn 10 mẫu ruộng để xây dựng và tạo kinh phí duy trì Văn chỉ Thọ Xương và hội Hướng Thiện. Có lẽ do tư tưởng “khinh thương”, “sĩ vi tiên” cố hữu chăng, mà người ta đã đặt ra chuyện tam đại tổ Bùi Văn Mạo (cụ nội) của ông Tùng năm 1717 di cư từ làng Phất Lộc ở phủ Thái Bình lên Thăng Long là để vào học Quốc tử giám, tức biến ông thành Nho sĩ. Thực ra, trong bản phả chữ Hán của dòng họ Bùi này, do chính người trong họ biên soạn năm 1866 đời Tự Đức, ghi rất rõ ràng rằng ông Mạo di cư ra kinh đô để “mưu doanh sản nghiệp”, tức tính chuyện kinh doanh, gây dựng tài sản. Hẳn ông đã thành công nên mới để lại cho con cháu nhiều ruộng đất, tiền bạc như vậy. Giầu có rồi, đương nhiên họ Bùi lo cho con cháu học hành. Gia phả chữ Hán viết ông Tùng cũng có học chữ Hán, có đi thi, nhưng không đỗ đạt gì và không hề viết ông Tùng “mở trường dạy học” mà ghi rõ ràng: “mời thầy về dạy con” và ông thầy đó chính là hưu quan Vũ Tông Phan. Xưa phải giàu có lắm mới mời được một ông tiến sĩ về làm gia sư. Nhờ công dạy bảo của tiến sĩ Phan riêng dòng họ Bùi thôn (nay là ngõ) Phất Lộc có hai người đỗ cử nhân là Bùi Huy Tuyên (1841) và Bùi Huy Côn (1843), nhiều người đỗ tú tài. Về phía tiến sĩ Phan, hẳn là nhờ ngồi dạy học trong tư gia ông Tùng, gần gũi với ông nhiều năm tháng, nên đã nhận ra doanh nhân này có cái tâm lớn, chứ không phải như thành kiến ông từng phát biểu trước kia trong một bài thơ tự cười sự vô dụng của mình: “Buôn bán thì lo để tiếng cắt cổ người”. Không phải vô cớ trong lễ thượng thọ 60 tuổi của Bùi Huy Tùng, tổ chức vào mùa xuân năm 1851, có đến hai chục tiến sĩ, cả đã về hưu dạy học lẫn đang làm quan trong triều / ngoài quận, gửi thơ, trướng, đối đến chúc mừng. Người xưa, đặc biệt tầng lớp Nho sĩ, rất khắt khe trong việc hôn nhân. Trong nhận thức của Vũ Tông Phan, sau các biến cố của thời cuộc, lại trải qua kinh nghiệm tiếp xúc cá nhân, hẳn đã có chuyển biến tích cực về vai trò của doanh nhân trong xã hội nên ông đã cho con trai cả là tú kép Vũ Như Trâm kết hôn với cháu ruột ông Tùng là Bùi Thị Dĩnh. Mối quan hệ thông gia ấy càng liên kết chặt chẽ một kẻ sĩ và một doanh nhân đồng tâm vì sự nghiệp chung. Bạ tịch Văn chỉ Thọ Xương hoàn toàn công bằng khi viết: Văn chỉ Thọ Xương “thành lập được là nhờ Bùi Tú Lĩnh (Tùng), chủ trương được (tức hoạt động có phương hướng rõ ràng) là bởi Vũ Hoán Phủ (Phan)”. Kinh nghiệm này về liên kết kẻ sĩ và doanh nhân bảy chục năm sau Đông Kinh Nghĩa Thục đã phát huy cực kỳ hiệu quả!
Vậy là những người sáng lập hội Hướng Thiện đã có trong tay một tổ chức xã hội thực sự rộng rãi, đủ cả trí tuệ lẫn tài lực để phục vụ cho các ý tưởng của họ!
3.3. E.Poisson có lý nhất định khi viết: “Nếu như tài liệu về Đông Kinh nghĩa thục rất dồi dào thì việc xác định những tư tưởng của Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu và Trần Văn Vi là vấn đề nam giải trong khi chúng ta chỉ có trong tay các bài thơ của họ”. Sự khiếm khuyết tài liệu tuyên ngôn tư tưởng là một thực tế ở các thời có những án văn tự thảm khốc như đầu triều Nguyễn: cha con Tổng trấn Bắc thành quận công Nguyễn Văn Thành bị giết chỉ vì một bài thơ (đương nhiên, đó chỉ là cái cớ Gia Long thanh toán các huân thần có thế lực quá lớn). Hơn nữa, về sau Cao Bá Quát, vốn quan hệ mật thiết với Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý, Lê Duy Trung..., lại tham gia khởi nghĩa (1853 - 1854) chống chế độ chuyên chế của nhà Nguyễn, nên có lẽ người ta đã phải huỷ tất cả những gì liên quan đến “nghịch thần”. Phải chăng điều này giải thích tại sao không một quyển gia phả nào nhắc đến hội Hướng Thiện. Trong tập di cảo được chép và đóng thành sách của Vũ Tông Phan bị xé mất mấy tờ ở giữa, trong các tuyển tập thơ văn được khắc in hoặc sao chép rất đầy đủ của Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý không có dòng nào về Cao Bá Quát, tuy rằng trong di cảo của Cao được môn sinh cất giấu, sau này sao chép lại cho trường Viễn Đông bác cổ, lại có thơ Cao xướng hoạ với cả 3 vị trên. Tuy nhiên, vấn đề không phải không thể tiếp cận, nếu biết kết hợp thơ văn với các nguồn tư liệu khác để kiên nhẫn đối chiếu, phân tích và “giải mã”. Tuy đã khoác cái áo tín ngưỡng thờ Thần văn chương - khoa cử, lại khôn khéo nấp sau chiêu bài “văn trị” mà Gia Long từng tuyên bố, nhưng chỉ riêng thái độ bất hợp tác (từ quan sớm như Vũ Tông Phan, hay 3 lần có lệnh gọi vào kinh đô nhậm chức mà đều thoái thác như Nguyễn Văn Siêu) cũng đã khiến triều đình ngờ vực ngay từ đầu, chứ chưa cần đợi đến việc sau này Cao Bá Quát trở thành “nghịch thần”. Điều này buộc những người lãnh đạo Văn hội Thọ Xương và hội Hướng Thiện phải hết sức thận trọng. Để phát biểu cái chí của mình họ phải sử dụng những hình thức ẩn dụ truyền thống của thơ văn phương Đông như điển cố và câu đối, thường bao hàm cái gọi là “ý tại ngôn ngoại”, mà người đương thời hiểu ngay, nhưng người đời nay nếu chưa thâm nhập cái “ngoại cảnh” ấy, tức môi trường văn hoá - xã hội thời ấy, thì không thể hiểu đúng được, như trường hợp G. Dumoutier, một người rất có lòng với văn hoá Việt nhưng đã dịch sai gần hết các văn bia và câu đối trong đền Ngọc Sơn - một điều không có gì lạ vì ngay người Việt đời nay, tuy thông thạo chữ Hán, vẫn chuyển dịch không hết ẩn ý trong một số câu chữ trong các văn bia và câu đối này.
Trong các công trình trước đây, trên cơ sở phân tích, “giải mã” thơ xướng hoạ giữa các yếu nhân của hội Hướng Thiện, cũng như văn bia, câu đối ở Văn chỉ Thọ Xương và đền Ngọc Sơn chúng tôi khẳng định rằng chủ trương của hội Hướng Thiện là chấn hưng văn hoá - giáo dục ở Hà Nội đã suy đồi nghiêm trọng sau ba chục năm chiến tranh liên miên, lại thêm chính sách của Gia Long và Minh Mạng cố ý hạ thấp vai trò đất cố đô Thăng Long. Trên đây đã phân tích quan niệm mới của họ về chữ “tàng” trong câu thơ trên văn bia khánh thành đền Ngọc Sơn của vị Hội trưởng Vũ Tông Phan. Chữ “tàng” còn được nhấn lại một lần nữa ở đoạn sau đó khi tác giả nói về những việc hội viên cần làm: tàng chí khí, tu dưỡng bản thân, du ngoạn, nghỉ ngơi rất tiếc là chữ “tàng” thứ hai này đã bị bỏ sót trong bản dịch ở “Tuyển tập văn bia Hà Nội” mà chúng tôi đã dẫn toàn văn trong công trình đầu tiên về Vũ Tông Phan, nên đã xin đính chính trong công trình sau đó. Ở đây xin “giải mã” thêm chữ “phương tiện”. Nói đến các hoạt động văn hoá - giáo dục của hội Hướng Thiện để thực hiện “tàng” (bao hàm “động”, tức “hành”) và ‘‘độc Thiện” (lấy Thiện để tu thân, bao hàm “kiêm Thiện”, tức lấy Thiện để giáo hoá mọi người, - theo Mạnh Tử), tác giả bài văn bia mang tính tuyên ngôn sử dụng điển cố Phật giáo “phương tiện” (thường thấy trên cửa tam quan các chùa: Phương tiện môn). “Phương tiện” là dịch chữ “Upàya” của Phật giáo, có nghĩa: “tìm mọi phương pháp và phương tiện giúp ích cho người, thông qua đó tuyên truyền và giáo hoá họ” (Lao Tử - Thịnh Lê: Từ điển Nho - Phật - Đạo). Một câu đối ngay trên đường vào đền gợi ý các phương pháp và phương tiện đó, mà giải mã đầy đủ phải hiểu như thế này: “Muốn gây dựng con người thì hãy lập những cột tiêu đạo lý khai mở đường đi cho họ - Để cứu giúp thế gian thì hãy xây cầu bến tri thức làm các cửa giác ngộ cho đời”.
Công cuộc chấn hưng văn hoá hội Hướng Thiện bắt đầu từ việc sửa đổi học phong và chấn chỉnh phong tục cho đúng đắn. Trên đây chúng tôi đã nhắc đến hàm ý trong tên “Sùng chính viện” do La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp chủ trì dưới thời vua Quang Trung. Tên đó không được đặt một cách ngẫu nhiên mà là thể hiện chủ trương Quang Trung từng tuyên bố trong Chiếu lên ngôi năm 1788: “Nhân nghĩa, trung chính là đạo lớn của người. Trẫm nay cùng dân đổi mới, vâng theo mưu mô sáng suốt của vua thánh đời trước để cai trị và giáo hoá thiên hạ”. Cũng bởi thế chăng mà mùa xuân năm 1834, tại cuộc rượu mừng khánh thành nhà dạy học Phương Đình, cử nhân Nguyễn Văn Siêu “lấy vần đình mời thơ” tiến sĩ Vũ Tông Phan, các cử nhân Cao Bá Quát, Trần Văn Vi, Lê Duy Trung và Diệp Xuân Huyên thì ông Phan, vị Đốc học sớm thành danh được họ tôn làm thủ lĩnh, trong bài thơ xướng đã đề xuất phương châm chấn chỉnh học phong bằng thủ pháp láy đi láy lại chữ “chính”. Trong một bài đáp từ, Siêu nguyện với bè bạn: “vẫn biết tròn là khôn ngoan, nhưng xin nguyện lấy vuông (“phương”, tức”phương chính”) làm hình mẫu và nếu như đã mười năm kể từ khi đỗ cử nhân (1825) ông vẫn khước từ ra làm quan (3 lần!) thì không phải để “trộm lấy sự an nhàn”, bởi như vậy thật “hổ thẹn với đình này”, tức với định hướng chấn chỉnh học phong cho ngay thẳng, đúng đắn tại “phương đình”.
Điều kiện lịch sử cho sự ra đời của những tư tưởng canh tân chưa chín muồi, những người sáng lập hội Hướng Thiện chủ trương trở lại với những lý tưởng cổ truyền của đạo Khổng như “nhân nghĩa” (đối với người thì nhân ái, đối với mình thì trọng nghĩa vụ), “dân là gốc”. Vũ Tông Phan còn cho khắc trên bia ở miếu Hoả thần: “trung với dân”, “nghĩa vụ của người quân tử là lo cho dân” (khéo léo cài vào đoạn văn ca ngợi Tổng đốc Hà Nội Đặng Văn Hoà tận tâm lo việc chống hoả hoạn cho dân chúng) - dường như phương châm này, trong nghịch cảnh buộc phải bất hợp tác với vương triều chính thống, vừa giải toả cho họ niềm canh cánh trước yêu cầu “trung quân”, được Nho giáo từ đời Tống coi là căn bản trong tư cách của Nho sĩ, lại vừa nêu ra một định hướng tư tưởng quan trọng cho hoạt động của hội Hướng Thiện mà các thế hệ kẻ sĩ Việt Nam sau này, đến Đông Kinh nghĩa thục và hậu Đông Kinh nghĩa thục tiếp tục phát huy.
Tiếp nối truyền thống của Nguyễn Trãi từng khẳng định trong
Bình Ngô đại cáo nền độc lập dân tộc gắn liền với bản sắc văn hoá riêng của nước Việt (“Cõi bờ sông núi đã riêng, phong tục Bắc [Trung Hoa] và Nam [Việt Nam] cũng khác”), Vũ Tông Phan, một mặt, trong thơ văn ca ngợi di tích danh thắng tưởng niệm các anh hùng chống ngoại xâm cứu nước như Phù Đổng Thiên Vương, Hai Bà Trưng, Lê Lợi, cả Quang Trung nữa, dẫu có phải gọi ông vua áo vải anh hùng là “nghịch tặc”, theo ngôn từ của triều Nguyễn; mặt khác, trong câu đối treo tại bái đường Văn chỉ Thọ Xương nêu phương châm kết hợp những chuẩn mực đạo lý nói trên của “cổ đạo” tức, Nho giáo nguyên thuỷ, với “phong tục tốt đẹp của nước xưa”, tức nước Việt cổ đại, để “dẫn dắt lớp người sau”. Và chẳng phải ngẫu nhiên một trong những đề tài ông thày họ Vũ ra cho sĩ tử tập làm văn ở trường Hồ Đình là “Phong tục là việc lớn trong thiên hạ”, không thể tuỳ tiện ra lệnh thay đổi như chuyện cấm mặc váy, vốn từ xa xưa là tập quán của phụ nữ đất Bắc. Việc chấn chỉnh phong tục bao giờ cũng phải đi đôi với chống mê tín dị đoan, thường tràn lan trong những thời buổi đạo lý suy đồi, giáo dục đình đốn, xuống cấp. Nếu như ở ngay cổng đền Ngọc Sơn có vế đối định hướng cho khách đến thăm đền là “Tìm hiểu cội nguồn, thăm hỏi chuyện xưa, trong việc ấy vô hạn ánh sáng văn hoá”, thì ở hậu điện từ năm 1856 đã treo câu đối của tiến sĩ Lê Duy Trung nhắc nhở mọi người, trước hết là các sĩ tử rằng: “Trời nào có nói gì đâu? Học đạo mà hiển đạt chẳng liên quan quẻ bói của ta - Thần thánh rất nhất quán (ý nói: không phải có thể đem mâm cao cỗ đầy cúng bái mà thay đổi được ý Trời, biến hoạ thành phúc!), phúc lành chỉ do đường đạo ngay thẳng”. “Thần” Siêu thì nói thẳng ra rằng: “Người xưa có câu: “Thần dựa vào người”. Nếu bỏ người mà chỉ tin thần thì đó là việc làm của bọn ngu”. Cử nhân Đặng Huy Tá trong bài văn bia viết năm 1865 nhân dịp hội Hướng Thiện hoàn thành trùng tu đền Ngọc Sơn, lại cảnh báo người đời (kể cả một số nhà nghiên cứu đời nay viết về đền Ngọc Sơn!) chớ nhầm lẫn thần (ngôi sao) Văn Xương với Tử Đồng đế quân mà người đời sau đồng nhất với thánh Văn Xương đế quân giữ sổ tước lộc trong Đạo giáo rồi sinh ra cái tệ cúng bái, cầu lộc cầu tài mà sao nhãng việc chính là hướng Thiện. Việc giáo dục tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, thương nòi, gìn giữ và phát huy thuần phong mỹ tục, chống các hủ tục và mê tín dị đoan cũng sẽ được Đông Kinh nghĩa thục đề cao và các phong trào sau đó kế tục dưới những hình thức mới.
Văn hoá Việt từ bao đời nay trước hết là văn hoá làng xã trồng lúa nước. “Nước” không thể tách khỏi “nhà” (“nhà nước”, “nước mất nhà tan”), lại càng gắn liền với “làng”, đặc biệt lúc nguy biến (câu kêu cứu: “Ới làng nước ơi!”). Những cái nôi gìn giữ văn hoá ấy là gia đình, nhà thờ họ, đình, chùa, đền cùng các phong tục, lễ nghi Việt trong làng xã trồng lúa nước cổ truyền - chẳng phải ngẫu nhiên Vũ Tông Phan và Lê Duy Trung viết nhiều văn bia ca ngợi việc trùng tu các di tích ấy ở Hà Nội và các địa phương. Các cơ sở truyền bá cái văn hoá ấy là ngôi nhà dạy học của các ông đồ. Nhưng điều đó trước đây diễn ra một cách tự nhiên, vô thức: cái thì theo nền nếp sắn có (việc thờ cúng, hội hè), cái do tình thế (không đỗ đạt ra làm quan thì ngồi nhà dạy học). Các Nho sĩ trong hội Hướng thiện đã bắt đầu tiến hành những việc đó một cách có ý thức và có tổ chức: trên bia
Thọ Xương tiên hiền từ vũ bi ký (1838), sau những câu chung chung về tôn kính tiên hiền, thờ vua giúp nước, Nguyễn Văn Lý bộc lộ chủ trương của họ một cách rất cụ thể, thiết thực: “vi hương quân tử, vi xã tiên sinh” (làm người có đạo đức chân chính trong làng, làm người thầy dạy học trong xã) - một lẽ sống mà từ hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn về sau kẻ sĩ đất Việt trong suốt ngót trăm năm cho đến các nhà Nho ở Đông Kinh nghĩa thục, vẫn noi theo. Và chẳng những trí thức Nho học mà đến cả những thanh niên “Tây học” trong nhóm “Thanh Nghị” ở giữa thế kỷ XX vẫn nhận thức đó là một lẽ sống chân chính và đã biến thành lời kêu gọi: “Anh em thanh niên! Đã đến lúc chúng ta về làm việc làng!” (Vũ Đình Hoè).
3.4. Những kết luận về các “chủ trương” (chữ dùng trên một câu đối trong đền Ngọc Sơn) của Văn hội Thọ Xương và hội Hướng Thiện, rút ra từ sự giải mã thơ văn chữ Hán được minh chứng bằng một số việc làm cụ thể của hai tổ chức này.
Về những việc làm của hội Hướng Thiện để thực hiện các chủ trương chấn hưng văn hoá chúng tôi đã trình bày khá chi tiết trong những công trình trước. Trong luận văn nhỏ này chỉ xin bổ sung một số chi tiết có liên quan đến phong trào Đông Kinh nghĩa thục sau này.
Trước hết, về địa bàn mở trường. Ngoài những ngôi trường “đại tập” (rèn tập sĩ tử đi thi cử nhân và tiến sĩ) nổi tiếng ở trung tâm Hà Nội đã từng giới thiệu nhiều, qua tài liệu gia phả chúng tôi đã phát hiện ở các phường, thôn nội / ngoại thành Hà Nội và cả ở các tỉnh lân cận khá nhiều thục xá tiểu học (cũng gọi là trường hương học, nghĩa là trường làng), dạy cho cả trẻ em và người đã trưởng thành thoát nạn mù chữ Hán cùng những giáo lý sơ đẳng của Khổng học. Những thục xá tiểu học này thường do các tú tài hoặc Nho sinh (người theo Hán học chưa đỗ kỳ thi nào) đảm nhiệm, vì nếu mới đỗ tú tài mà đã ra làm quan thì chỉ có thể được bổ làm thư lại, lương chẳng đáng bao nhiêu. Bởi vậy nhiều người đỗ tú tài đến vài ba lần, có người đỗ đến 8 lần như Nguyễn Đức Hiến, anh ruột của hoàng giáp Nguyễn Tư Giản. Thường thì số Nho sĩ này vừa tiếp tục học vừa mở lớp dạy chữ Hán tại nơi mình sinh sống hoặc ở gần nơi theo học trường đại tập. Theo sách
Quốc triều hương khoa lục trong 7 khoa thi từ 1807 đến 1831, khi những người sáng lập Văn hội Thọ Xương nêu ra chủ trương “vi hương quân tử, vi xã tiên sinh”, riêng ở khu vực Hà Nội đã có 129 người đỗ cử nhân, tức có thể có đến 387 - 516 tú tài (theo thông lệ cứ 1 cử nhân lấy 3 - 4 tú tài). Như trên đã nói, “Bạ tịch” cho biết riêng trong huyện Thọ Xương tính đến năm 1870 đã có 105 tú tài, vậy trong tiềm năng có thể có đến hàng trăm thục xá tiểu học là “các cửa giác ngộ cho đời” của hội Hướng Thiện. Riêng tại khu vực lân cận hồ Hoàn Kiếm, căn cứ gia phả và thơ văn, chúng tôi đã xác định được 13 ngôi trường làng với địa chỉ và tên tuổi của các ông đồ. Đó chính là một nguồn dự bị hùng hậu cho Đông Kinh nghĩa thục sau này triển khai nhanh chóng và rộng rãi phong trào. Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên hẳn biết rõ điều này nên năm 1969 đã đề xuất “cần đi sâu để hiểu biết vai trò của ông đồ trong xã hội phong kiến Việt Nam <...> Có thể nói xã hội phong kiến Việt Nam mấy nghìn năm giữ được rường mối, trong đó vai trò của ông đồ rất lớn <...> Vai trò của những ông đồ trong công cuộc chống ngoại xâm cũng rất lớn” (dẫn theo Vũ Đình Hoè). Nhưng trên tài liệu ghi phát kiến quý giá đó người ta cộp con dấu “Mật”, và vấn đề cho đến nay vẫn bỏ ngỏ!
Hai là, tận dụng việc “giảng kinh”, một hình thức xưa cũ chính thức được phép tiến hành ở các đền chùa, nhưng lồng vào đó nội dung mới, được cập nhật phù hợp yêu cầu từng thời kỳ. Đều đặn một tháng hai lần, vào các ngày mồng 2 và 16 hội Hướng Thiện tổ chức các buổi thuyết giảng như vậy. Việc chọn ngày cố định nhằm thu hút được đông đảo thính giả hơn vì sẽ tránh được các ngày mọi người bận việc cúng bái ở nhà hoặc tại chùa (Phật giáo), đền miếu (Nho giáo), quán (Đạo giáo) thuần tuý tôn giáo tín ngưỡng. Mới đầu là giảng những kinh sách sẵn có của Văn Xương đế quân (thánh Văn) và Quan Thánh đế quân (thánh Võ - theo lý tưởng văn võ kiêm toàn của Nho gia), khuyến khích mọi người làm việc thiện để tu dưỡng đạo đức, gìn giữ lòng hiếu thảo với cha mẹ, đức thuỷ chung trong tình vợ chồng, sự nhường nhịn, hoà thuận giữa anh em với nhau, thành thực trong quan hệ bạn bè, giữ chữ tín trong quan hệ với mọi người v.v... Đến khi tình thế cho phép chuẩn bị chuyển sang hành động thì nội dung các bài kinh lập tức được cập nhật những phương châm tư tưởng của từng thời kỳ. Hình thức này, tức giảng kinh để tuyên truyền rộng rãi tư tưởng, Đông Kinh nghĩa thục đã phát triển mạnh mẽ, khi hô hào mọi người đi “tụng kinh Độc lập ở chùa duy tân”.
Mọi người đều biết hoạt động biên soạn và in ấn sách để truyền bá tư tưởng canh tân của Đông Kinh nghĩa thục ở đầu thế kỷ XX, nhờ có chữ quốc ngữ la-tinh hoá và máy in, mới có thể phát triển rộng lớn. Vậy mà ngay từ nửa đầu thế kỷ XIX, khi để in một quyển sách người ta phải khắc ngược từng chữ Hán / Nôm, đền Ngọc Sơn vẫn thực hiện được chức năng của một cơ sở biên soạn, khắc in sách và tàng trữ ván khắc lớn nhất Hà Nội. Tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội còn lưu trữ danh mục 241 đầu sách được hội Hướng Thiện khắc in trong đền. Trong đó có những sách dày đến trăm rưởi trang, tức người ta phải làm 150 cái ván khắc. Cho đến năm 1966, nhà Hán học lão thành Vũ Tuân Sán còn kiểm kê được ở đây 1156 cái ván in và cụ đã khẳng định đúng đắn rằng đó là những “chứng tích minh bạch” về vai trò đặc biệt của đền Ngọc Sơn trong hoạt động văn hoá và trào lưu tư tưởng của Hà Nội ở vào thời kỳ trên. Phần chúng tôi muốn lưu ý trong số sách khắc in tại đền Ngọc Sơn là những quyển thể hiện các “chủ trương” của hội Hướng Thiện như:
- Sách giáo dục đạo lý làm người như truyện các danh nhân dân tộc Chu Văn An và Trần Hưng Đạo cùng đền miếu phụng thờ họ, nhiều kinh “giáng bút” của chư vị thần thánh Việt Nam răn dạy các đạo lý cổ truyền trung với dân với nước, hiếu với cha mẹ, hoà thuận với anh em, cưu mang người khốn khó v.v...
- Sách phổ cập kiến thức chữ Hán cùng giáo lý sơ đẳng của Nho giáo như
Tam tự kinh,
Tiểu học lược biên (tóm lược một các dễ hiểu các sách cơ bản của Khổng giáo như
Đại học,
Luận ngữ...),
Khải đồng thuyết ước (dạy trẻ em những hiểu biết sơ đẳng về thiên nhiên, con người, xã hội... có hình vẽ minh hoạ),
Đại sinh chỉ yếu (kinh nghiệm dưỡng thai, sinh đẻ, nuôi con)v.v...
Việc một số đền miếu ở địa phương như đền thờ Trần Hưng Đạo ở Vạn Kiếp đã về đền Ngọc Sơn sao chép, in lại những sách biên soạn ở đây, cũng chứng tỏ đền Ngọc Sơn là một trung tâm biên soạn và xuất bản sách hồi nửa đầu thế kỷ XIX.
4. Trên đây chúng tôi đã nói rằng việc vắng mặt các tài liệu tuyên ngôn tư tưởng là một thực tế dưới chế độ chuyên chế ở đầu triều Nguyễn. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là các định hướng tư tưởng và phương thức hoạt động của hội Hướng Thiện không có cách gì truyền lại cho các thế hệ sau để có thể đến với phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Chí ít ra có thể nói đến hai con đường truyền thừa.
4.1. Trước hết là thông qua quan hệ gia đình - dòng họ, như thường nói “cha truyền con nối”. Tài liệu gia phả và những lời kể lại trong dòng họ, bước đầu được xác minh bằng một số tài liệu điền dã đã phát hiện và sách báo viết về thời kỳ này, cho biết ở hầu hết gia đình các yếu nhân của Văn hội Thọ Xương và hội Hướng Thiện đều có con cháu sau này tham gia tích cực phong trào văn thân kháng Pháp và phong trào Duy tân cùng trường Đông Kinh nghĩa thục. Xin nêu làm ví dụ một số trường hợp mà chúng tôi nắm được tương đối đầy đủ tư liệu.
Sách vở và báo đài đã nói nhiều về dòng họ tiến sĩ Vũ Tông Phan, vị Hội trưởng Hướng Thiện đầu tiên và một trong những người khởi xướng công cuộc chấn hưng văn hoá Thăng Long trong nửa đầu thế kỷ XIX, về truyền thống yêu nước chống ngoại xâm và sự nghiệp “trồng người” qua 5 thế hệ ông đồ họ Vũ ở trường Hồ Đình và Mậu Hoà thục xá huyện Đan Phượng tỉnh Sơn Tây cũ (nay thuộc xã Minh Khai huyện Từ Liêm - Hà Nội). Để chứng minh đó không phải là ngoại lệ xin giới thiệu về sự truyền thừa các định hướng tư tưởng, phương thức hoạt động cùng những thục xá như cơ sở văn hoá - xã hội của hội Hướng Thiện ở làng xã qua một dòng họ khác.
Đó là dòng họ tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, đồng sáng lập viên của Văn hội Thọ Xương và hội Hướng Thiện, người năm 1860 làm Đốc học Hưng Yên, theo
Tự truyện của chính ông trong quyển gia phả bằng chữ Hán cũng do ông soạn vào cuối đời, đã tập hợp các Giáo thụ, Huấn đạo dưới quyền cùng dâng
Mật sớ can ngăn vua Tự Đức không hoà với giặc Tây dương. Có hai người con trai của người sáng lập trường Chí Đình trên mảnh đất tổ tiên tại làng Trung Tự huyện Thọ Xương (nay thuộc quận Đống Đa - Hà Nội) đã nối nghiệp cha, nhưng theo hai cách khác nhau. Nguyễn Văn Thiệu (1833/34 - 1896) ở nhà thay cha làm ông đồ tại trường Chí Đình trong làng Trung Tự. Nguyễn Hữu Quý (1858 - 1942) cũng dạy học trong làng, sau khi đỗ cử nhân khoa 1886 phải ra nhận chức Huấn đạo ở các huyện, rồi Giáo thụ phủ Vĩnh Tường. Thì có khác gì việc cha của ông từ sau khi đỗ tiến sĩ năm 1832 phải ra làm quan gần như suốt đời, nhưng vẫn “tàng” được giữa triều đình, tức vẫn theo đuổi được chí hướng riêng để làm những việc có ích cho mọi người. Cử nhân Hữu Quý đã nối được chí của cha, ở cương vị học quan chẳng những thực hiện tốt chức phận chăm lo cho sự học của dân ở các huyện Chương Mỹ, Đông Anh, Vĩnh Tường (nay Ba Vì), mà còn dành tâm và lực sưu tầm ca dao, tục ngữ, phương ngôn về các nghề nông, công, thương, làm thành sách “Khẩu sử ký” (sử truyền miệng), hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội.
Trực tiếp tham gia Đông Kinh nghĩa thục là Nguyễn Hữu Cầu (1879 - 1946), cháu nội tiến sĩ Lý, đỗ cử nhân năm 1906, nhưng không ra làm quan, ở nhà tìm đọc các “tân thư” rồi cùng Lương Văn Can, Nguyễn Quyền lập ra Đông Kinh nghĩa thục, tham gia Ban tu thư, đảm nhận việc dịch “tân thư” chữ Hán sang tiếng Việt cho các giáo viên làm tài liệu giảng dạy. Ông Hữu Cầu quan tâm việc bài trừ hủ tục, từng viết luận văn nổi tiếng một thời -
Y tục luận (bàn về chữa thói tục). Tránh được đòn khủng bố giáng xuống trường Đông Kinh nghĩa thục năm 1907, nhưng 7 năm sau, 1914, ông Cầu vẫn bị chính quyền Pháp bắt đày ra Côn Đảo vì tiếp tục bí mật tham gia phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo, đồng thời nhận dạy học công khai ở trường Hợp Ích do một sĩ phu yêu nước là tiến sĩ Nghiêm Xuân Quảng sáng lập. Khi ông mất, học giả Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban thường trực (như Chủ tịch) Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà viết một bài lớn bằng tiếng Pháp nhan đề
Một đại sĩ phu đăng trên báo
Le Peuple (
Nhân dân bằng tiếng Pháp) ngày 4-8-1946, ca ngợi ông: “Một gương mặt sĩ phu cao cả và trong sáng đã ra đi, gương mặt của một nhà yêu nước vĩ đại, một trí tuệ kiên cường, uyên bác và sáng tạo đã chiến đấu suốt đời vì nền độc lập của Việt Nam” (Nguyễn Chí Công dịch).
4.2. Việc khảo cứu sự truyền thừa chí khí cùng các định hướng tư tưởng, hình thức và phương thức hoạt động của hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn qua môn sinh của các trường Hồ Đình, Phương Đình, Chí Đình, Liên đình v.v..., đặc biệt là của các thục xá hoạt động lặng lẽ nơi phường thôn, gặp nhiều khó khăn hơn. Do thời thế đổi thay, những mối quan hệ với gia đình các cựu môn sinh từ hơn nửa thế kỷ nay đã đứt đoạn. Qua thơ văn, gia phả chỉ có thể biết áng chừng số lượng môn sinh các tư thục nổi tiếng có đến hàng nghìn. Căn cứ lạc khoản bia thờ Vũ Tông Phan và các gia phả, đến nay chúng tôi chỉ mới xác định thêm được họ tên gần hai chục môn sinh ở trường Hồ Đình, trong đó một số người liên quan đến Văn hội Thọ Xương, hội Hướng Thiện và phong trào văn thân yêu nước sau này.
4.2.1. Trước nay nhiều tác giả viết truyện danh nhân đều miêu tả rằng Phó trưởng môn Hồ Đình hoàng giáp Lê Đình Diên, cử nhân Ngô Dạng và cử nhân Nguyễn Huy Đức nối được chí ông thày họ Vũ. Tuy nhiên, cũng chỉ nêu được hai chi tiết: cả ba người đều dạy học (cử Dạng và cử Đức thậm chí còn “tàng” rất kỹ: không hề ra làm quan) và cả ba đều chống giặc Tây dương: Lê Đình Diên ngăn cản bọn Jean Dupuis do thám cửa Bắc thành Hà Nội, bị chúng đánh ngã võng; Ngô Dạng cầm đầu nghĩa đoàn Thọ Xương đánh trả đồng bọn của tên lái buôn kiêm do thám dó; Nguyễn Huy Đức bất hợp tác đến cùng với triều đình hoà với quân cướp nước. Và tất cả đều dừng ở đó vì không có tài liệu gì khác.
Chỉ gần đây, trong lần đi khảo sát điền dã ngày 12-4-2007 ở làng Hạ Thái huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây chúng tôi mới phát hiện thêm một số điều. Căn cứ bia Liên Đình Nguyễn tiên sinh bi, do môn sinh dựng năm 1903 để thờ thày là cử nhân Nguyễn Huy Đức (1824 - 1898), và gia phả của dòng họ Nguyễn - huy làng Hạ Thái này, thì ngoài trưởng môn Lương Văn Can, còn 3 người môn sinh nữa của thày Đức liên quan phong trào Duy tân và Đông Kinh nghĩa thục.
Người thứ nhất là tiến sĩ khoa 1880 Đỗ Văn Tâm (trước có tên là Ái), với chức vụ khắc ở lạc khoản văn bia năm 1903 đã là Tổng đốc Ninh Thái (Ninh Bình - Thái Bình). Theo Nguyễn Tường Phượng, môn sinh của cụ Nguyễn Quyền (một đồng sáng lập viên trường ĐKNT), sau làm Chủ nhiệm báo Tri Tân, thì Đỗ Văn Tâm có tham gia Đông Kinh nghĩa thục. Điều này còn cần thẩm định, tuy nhiên có hai điều xác thực là: a) Ông này cũng có tên cùng Lương Văn Can trên tấm bia của phả Thiện An Lạc trong đền Ngọc Sơn; b) Ông thường đứng tên đề tựa hoặc duyệt các sách giáo khoa phục vụ cuộc canh tân giáo dục trong những năm 1906 - 1916.
Trường hợp thứ hai khá lý thú từ góc độ truyền thừa. Cử nhân Nguyễn Hữu Quý đã đề cập ở trên học với thày Nguyễn Huy Đức, mà ông Đức, theo văn bia nói trên, từng thụ giáo hai thày liên tiếp là Vũ Tông Phan và Nguyễn Văn Lý (cha của ông Quý). Vậy có thể nói chắc chắn là cháu nội của tiến sĩ Lý là Nguyễn Hữu Cầu (đồng sáng lập viên ĐKNT) cũng từng học với thày Nguyễn Huy Đức bởi vì: một là, khi ông sinh ra (1879) thì ông nội đã mất (1868); hai là, theo các gia phả, xưa kia việc cha - con, chú - cháu, anh - em cùng học một thày là chuyện phổ biến (Vũ Tông Cửu - cha, Vũ Tông Phan - con cùng học với tiến sĩ Phạm Quý Thích; hai chú cháu Bùi Huy Côn và Bùi Huy Tuyên cùng học với Vũ Tông Phan...).
Người thứ ba trong số môn sinh liên quan Đông Kinh nghĩa thục chính là con gái của thày Nguyễn Huy Đức - bà Nguyễn Thị Diễm. Gia phả tục biên bằng chữ quốc ngữ, do người chắt nội ngành trưởng là Nguyễn Huy Thiều (nay đã 77 tuổi) viết, cho biết: bà Diếm có chồng đi du học bị mất tích, khi Lương Văn Can cùng các đồng chí mở trường ĐKNT bà có tham gia dạy lớp nữ sinh. Trường Đông Kinh nghĩa thục, theo một số nhà nghiên cứu, chỉ có hai nữ giáo viên. Một người là em gái Lương Trúc Đàm, Nguyễn Hiến Lê đã cho biết từ năm 1957 (Lương Trúc Đàm gọi là “em Năm tôi”), theo gia phả họ Lương này thì đó là Lương Thị Tín, con gái của Lương Văn Can. Nay xin nêu rõ huý danh của nữ giáo viên người thứ hai. Sau khi Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, bà Diễm lánh về làng Hành Thiện - Nam Định dạy học, sau theo cháu là Nguyễn Hữu Đương vào Sài Gòn và mất ở đó, được hoả táng, tro cốt ký táng tại chùa Vĩnh Nghiêm. Ông Đương về già định cư ở Hoa Kỳ và mất tại đó năm 1999.
Cũng cần nói thêm rằng: theo gia phả 4 con trai của thày Liên Đình đều mở tư thục dạy học ở các làng xã huyện Thanh Trì - Hà Nội và huyện Thường Tín - Hà Đông (nay là Hà Tây), và các ngôi tư thục ấy đều có thể trở thành những cơ sở văn hoá - xã hội dự bị của Duy tân và Đông Kinh nghĩa thục. Người con trai thứ năm tên là Huy Chiêu về sau tham gia Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học.
4.2.2. Về Trưởng môn Hồ Đình hoàng giáp Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890), làm quan đến Thượng thư bộ Lại, Phó tổng tài Quốc sử quán, thì người ta chỉ kể những mẩu giai thoại về tấm lòng tôn sư trọng đạo của ông, nhưng không ai nói gì về việc “nối được chí thày”: ông suốt đời làm quan với triều Nguyễn, lại không có tài liệu nào nói ông chống Pháp xâm lược, thậm chí có người còn viết ông thuộc phái “chủ hoà”. Mãi đến năm 2000, nhờ có cuộc Hội thảo về Nguyễn Tư Giản do khoa Văn trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp với dòng họ Nguyễn ở Vân Điềm - Du Lâm tổ chức, nhiều tài liệu nằm trong kho lưu trữ Hán Nôm mới được khai thác và trước mọi người mới hiện ra “một trí thức lớn của thế kỷ XIX”, yêu nước thương dân, sớm có tư tưởng canh tân nhằm giữ vững chủ quyền cho Tổ quốc. Trước hết, Nguyễn Tư Giản chủ chiến còn kiên quyết hơn cả hai bạn đồng môn Lê Đình Diên và Ngô Dạng. Năm 1859, đang lo việc trị thuỷ sông Hồng ở ngoài Bắc, nghe tin triều đình định hoà với quân xâm lược, ông dâng
Mật sớ đánh Tây can gián vua Tự Đức, phân tích những lý do không thể hoà lúc ấy mà không hại cho nước, trình rõ cả cách đánh tiếp cận địch bất ngờ, “núp để đánh bằng gươm ngắn” chống lại “tầu to, pháo dài” của giặc. Nhưng điều quan trọng hơn là để thắng giặc cả trên chiến trường lẫn trong tư tưởng (tranh chấp lòng dân với các cha cố đạo Gia-tô) thì phải lo cho dân có cái ăn, cái mặc mới có thể “yên dân sinh” được, mà có “yên dân sinh” thì mới hòng chấn chỉnh được phong tục và chí hướng của dân. Muốn vậy phải chăm sóc nghề nông, đồng thời phải phát triển công, thương làm cho của cải, hàng hoá nhiều và lưu thông thì dân mới đủ ăn đủ mặc. Nhưng Nguyễn Tư Giản không chỉ tiếp nối tư tưởng “trung với dân” của thầy Vũ Tông Phan. Những hoàn cảnh lịch sử đã chín muồi giúp cho trò vượt qua thày, khắc phục được những hạn chế lịch sử của thày và các đồng chí của ông trong hội Hướng Thiện. Cùng Bùi Viện và Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Tư Giản lập ra Tân đảng, chủ trương mở rộng quan hệ với các nước Âu Mỹ, đưa thanh niên xuất dương để học lấy kỹ thuật tiên tiến của họ. Ông quả là một nhịp cầu nối giữa hội Hướng Thiện và Đông Kinh nghĩa thục. Ngay trong gia đình mình thì ông đã là một nhịp cầu tư tưởng như vậy giữa thày Vũ Tông Phan và con trai thứ tám của ông là tú tài Quý Viên (1872 - 1930) và người cháu họ Nguyễn Định (1854 - 1939) - hai ông đồ tư thục tại Du Lâm - Vân Điềm đã hưởng ứng Đông Kinh nghĩa thục, mở lớp ở địa phương mình, ngay tại nhà thờ sắc trên đất tổ tiên họ Nguyễn.
4.2.3. Lạc khoản trên bia thờ thày Vũ Tông Phan ghi Vũ Đức Quang là người phường Đồng Lạc (nay là phố Hàng Đào - Hà Nội), cử nhân khoa Canh Tuất (1850), nguyên Giáo thụ phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây. Sách
Đại Nam liệt truyện, quyển 42, ở mục
Những người có đức hạnh có viết về ông mươi dòng, cho biết ông chỉ làm Giáo thụ mấy năm, rồi mắc bệnh xin về, mở trường dạy học, “lấy trau dồi đức hạnh làm đầu, từng bảo học trò rằng: học để làm người, con đường khoa cử chỉ là cái bậc thềm. Đừng hỏi đỗ hay không đỗ, chỉ nên hỏi học hay không thôi”. Ông có chân trong Văn hội Thọ Xương và còn để lại tên trên bia công đức lập năm 1865, sau khi Nguyễn Văn Siêu trùng tu và tôn tạo đền Ngọc Sơn. Thành tích của ông làm việc thiện cứu người đói khổ, bệnh tật còn ghi ở Viện Pasteur mà cháu ông là nhà văn Vũ Ngọc Phan từng đến khảo sát. Con cháu ông, cử nhân Vũ Cẩn và cử nhân Vũ Hán Bích, cũng tham gia Văn hội Thọ Xương; họ cùng với cháu ông là Vũ Thụ lại tham gia các phả Thiện Ngọc Sơn, đều còn để lại tên trên các bia công đức trong đền. Theo gia phả, cử nhân Vũ Cẩn khi đương chức Tuần phủ Sơn Tây, quân Pháp chiếm thành, đã rút vào rừng, tập hợp văn thân mưu chống lại, nhưng thế cô, đành phục tùng mệnh cha, về hợp tác với chính quyền bảo hộ, nhưng vẫn giữ quan hệ với phái chủ chiến nên luôn luôn bị người Pháp theo rõi và kiềm chế. Chúng tôi chưa phát hiện ai trong số học trò của thày Vũ Đức Quang tham gia Đông Kinh nghĩa thục. Môn sinh của thày Quang cùng trang lứa với môn sinh trường Liên Đình của thày Nguyễn Huy Đức ở thôn Vũ Thạch - Hà Nội, sau chuyển về làng Hạ Thái - Hà Tây. Chúng ta đã biết thày Đức có môn sinh tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục là Lương Văn Can, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Thị Diễm... Không lẽ không có môn sinh nào của thày Vũ Đức Quang hưởng ứng phong trào này mặc dù trường Đồng Lạc của thày ở 38 Hàng Đào chỉ cách Đông Kinh nghĩa thục ở số 10 vài chục mét?
4.2.4. Cử nhân Lê Ngọc Lâm (1830 - 1876) từng làm Giáo thụ, sau, 1885, được bổ Đốc học Quảng Trị. Ông vào Huế để lĩnh chỉ đúng lúc vua Hàm Nghi rời kinh thành ra sơn phòng Hà Tĩnh tuyên hịch Cần vương, bèn theo vua nhưng giữa đường bị lạc, rồi ốm chết. Riêng điều này cũng đã cho thấy ông theo tư tưởng và chí hướng của các thày Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Lý và Lê Duy Trung mà ông lần lượt theo học trong ngót hai chục năm: phả viết Lâm đỗ tú tài 5 lần, trong đó có 2 lần đỗ đầu. Nhưng ở đây chúng ta quan tâm góc độ khác: trong 15 - 20 năm dùi mài kinh sử ấy, để kiếm sống mà tiếp tục theo học cậu Tú Lâm phải lần lượt làm ông đồ ở các thôn làng An Xá ở chính huyện Thọ Xương, Gia Thượng bên huyện Gia Lâm, Quất Động ở huyện Thường Tín, Mai Dịch và La Khê ở huyện Từ Liêm - đều là những huyện tiếp giáp Hà Nội. Cũng có nghĩa Lê Ngọc Lâm đã mở nhiều thục xá, hoặc các thục xá có sẵn ở địa phương đã mời cậu Tú Đụp nổi tiếng hay chữ, nhưng “học tài thi phận”, được cả một số quan trong triều đình như Nguyễn Trọng Hợp, Hoàng Xuân Hiệp biết đến và không phải một lần tiến cử. Mỗi thục xá ấy đều có thể trở thành cơ sở văn hoá - xã hội dự bị cho Đông Kinh nghĩa thục. Môn sinh của thày Lâm là Ngô Giáp Đậu (1853 -?), làm quan đến Đốc học Nam Định, sau này tham gia tích cực vào việc biên soạn sách giáo khoa cho công cuộc cách tân giáo dục hai chục năm đầu thế kỷ XX.
Có thể quan sát cụ thể về hai con đường truyền thừa nói trên qua các sơ đồ ở phần Phụ lục.
5.1. Cho đến nay chưa có ý kiến xác định hội Hướng Thiện như một tổ chức văn hoá - xã hội của sĩ phu Hà Nội tồn tại và hoạt động thống nhất đến thời gian nào. Hình như cùng với việc lên ngôi tai tiếng của Tự Đức mồng 10-11 năm 1847 và việc Hồng Bảo, anh cả của tân hoàng đế bị đoạt mất ngôi báu đã ngã ngất đi trong buổi triều yết (Tsuboi) rồi mồng 1 Tết 1851 chạy trốn ra ngoài cầu viện, bị bắt giam vào ngục, “tự thắt cổ tự tử”, giữa các yếu nhân của hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn đã bắt đầu có sự bất đồng nào đó trong nhận định thời thế và phương châm xử thế. Nhưng đó mới là phỏng đoán của chúng tôi qua mấy dòng thơ văn kín đáo của họ và qua việc Vũ Tông Phan, người đứng đầu cả Văn hội Thọ Xương lẫn hội Hướng Thiện, năm 1848 trong cuộc gặp gỡ “luận bàn truyện cũ” với Nguyễn Văn Lý và Lê Duy Trung “chỉ trầm ngâm”, rồi sau đó đột ngột trao lại Hồ Đình cho trưởng nam là tú kép Như Trâm, về ẩn dật tại tư thục Giang Đình trên sông Đáy ở Sơn Minh (huyện Mỹ Đức - Hà Tây ngày nay). Ba năm sau, 1851, ông mất, người ta bầu phó bảng Nguyễn Văn Siêu làm Hội trưởng. Có lẽ đó là một lý do khiến ông Siêu kiên quyết từ quan năm 1854, trong khi hai yếu nhân khác là Nguyễn Văn Lý và Lê Duy Trung phải tiếp tục tại chức, nhưng lần lượt được chuyển sang ngạch học quan. Căn cứ niên đại xuất hiện của các đầu sách in ở đền Ngọc Sơn và năm đỗ đạt của các môn sinh thì mọi hình thức hoạt động vẫn tiếp diễn, chí ít ra cũng đến khi Hội trưởng thứ hai mất vào năm 1872 (Lê Duy Trung và Nguyễn Văn Lý mất trước đó: 1863 và 1868). Trong lược sử viết tay bằng chữ quốc ngữ của Phả Thiện Ngọc Sơn (soạn khoảng sau năm1956) không thấy ghi ai là Hội trưởng thứ ba. Có ý kiến cho rằng đó là Nguyễn Tư Giản. Tuy nhiên cho đến nay chưa phát hiện được bất kỳ căn cứ nào minh chứng. Có lẽ hội Hướng Thiện đã không còn tồn tại dưới hình thức cũ do những biến cố vũ bão diễn ra dồn dập ngay sau khi Nguyễn Văn Siêu mất: 1873 quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, năm 1882 - lần thứ hai và chiếm được hẳn, tiếp theo đó lần lượt đánh chiếm các tỉnh thành trọng yếu ở Bắc kỳ. Bản thân đền Ngọc Sơn, trụ sở của hội Hướng Thiện cũng bị đơn vị Cục Thông tin - báo chí của quân viễn chinh chiếm đóng một thời gian.
Một lần nữa, Nho sĩ Hà thành lại phải thay đổi hình thức và nội dung hoạt động. Về tổ chức, theo lược sử bằng chữ quốc ngữ nói trên, hội Hướng Thiện đã chia nhỏ thành ba “phả”: Tập Thiện phả, Lạc Thiện phả và An Lạc phả. Chữ “phả” nhấn mạnh tính chất tín ngưỡng, chức năng thờ cúng của các tổ chức này. Một điều có thể khẳng định là phải sau năm 1872, tức sau khi Nguyễn Văn Siêu mất, đền Ngọc Sơn mới có cơ hội trở thành ngôi đền tam giáo (Nho, Phật, Lão - với Trương Á Tử đời Tấn bên Tầu, tự xưng là Tử Đồng đế quân, sau người Trung Hoa tôn lên làm Văn Xương đế quân), chứ không phải ngay từ đầu nó đã là thế như một số tác giả viết về di tích này. Chứng cớ là các hoành phi, câu đối mang nội dung Đạo giáo (chiếm một tỷ lệ rất nhỏ ở trong đền: 3/41 câu đối) chỉ có niên đại cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Bức hoành phi “Độ thế hữu đan” (Cứu đời đã có linh đơn, tức thuốc tiên), liên quan thánh Lã Tổ trong Đạo giáo (được tôn làm Phù Hựu đế quân, tổ nghề y), có niên đại thậm chí là 1940. Và mặc dù ngay từ đầu đền này đã in khá nhiều kinh Đạo giáo, nhưng đó là việc thường làm của tất cả các cơ sở in ấn muốn đáp ứng nhu cầu xã hội. Chỉ từ thời kỳ sau năm 1873, do những tai hoạ liên tiếp giáng xuống đầu mọi người cùng với chiến tranh, loạn ly (nước mất, nhà tan) bắt đầu thịnh hành trong đền Ngọc Sơn cái tệ cúng bái, lên đồng, cầu tài cầu lộc mà Nguyễn Văn Siêu và Đặng Huy Tá đã cảnh báo.
5.2.1. Trong giai đoạn hoạt động sau này, sau khi phân thành 3 phả người đóng vai trò quan trọng, theo chúng tôi là Nguyễn Trọng Hợp (1834 - 1902), cháu họ Nguyễn Văn Siêu và môn sinh tiểu học của tú tài Vũ Tông Cửu, thân phụ tiến sĩ Vũ Tông Phan, sau theo đại tập ở trường Chí Đình của tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, đỗ tiến sĩ năm 1865, làm quan đến Thượng thư bộ Lại, Cơ mật viện đại thần. Về nhân vật lịch sử này chúng ta biết chưa nhiều do suốt nửa thế kỷ ông bị kết tội là “bán nước” vì đã đặt bút ký dưới hiệp ước Harmand năm 1883, chấp nhận quyền thống trị của Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Chỉ sau khi có đường lối Đổi mới (1986), Hội khoa học lịch sử Việt Nam và Hội Sử học Hà Nội mới tổ chức được vào đầu năm 1991 một cuộc Hội thảo về ông, công bố một số tài liệu liên quan đến nhân cách thanh cao, “trung chính”, và những cố gắng của vị đại thần đầu triều để bất luận trong hoàn cành nào cũng thực hiện: “trung với dân”, “nghĩa vụ của người quân tử là lo cho dân”, khiến ngay cả đối thủ của ông, những vị quan thực dân chóp bu như Toàn quyền Paul Doumer cũng phải kính nể viết: “ông đã chấp nhận một cách trung thực, một tình trạng mà ông không thể nào làm khác được. Ông đã giữ một cách xứng đáng, có tư cách vai trò khó khăn của một người cầm đầu một chính quyền bị bảo hộ, biết có ý kiến bác bỏ những điều khoản do kẻ chiến thắng áp đặt, nếu ông nhận thấy các điều khoản này là nguy hiểm hay có hại, tự đứng ra làm người bảo vệ quyền lợi của nhân dân An Nam mỗi khi ông nhận thấy cần thiết” (dẫn theo Chương Thâu, - chúng tôi nhấn mạnh). Nguyễn Trọng Hợp đã bảo vệ những quyền lợi gì của nhân dân, một khi nước đã mất? Chính Lanessan, người trên tư thế kẻ chiến thắng tham gia cùng Tổng uỷ viên Harmand đàm phán với Nguyễn Trọng Hợp, nhận thấy ông:“rất gắn bó với đất nước ông, rất cương quyết trong việc bảo vệ các phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng...”. Và kỳ lạ là một nhà sử học nước ngoài, thuộc một nền văn hoá khác hẳn, viết về giai đoạn bi thảm này của dân tộc Việt Nam lại đoán ra thâm ý “tàng” (bao hàm mặt đối lập là “hành động”, như trên đã phân tích) của Nguyễn Trọng Hợp: “Vả chăng người ta không thể loại trừ rằng khi nhằm vào một thời kỳ dài, ông Hợp đã nghĩ rằng nước Pháp, cường quốc xa xôi đó, một ngày nào đó, bằng cách này hay cách khác sẽ bị dồn tới chỗ phải rút lui khỏi châu Á. Và như vậy thì trước mắt duy trì cái chủ yếu của đất nước là sự chuẩn bị duy nhất có thể làm được và cần thiết” (P. Perugia, - chúng tôi nhấn mạnh). Cái chủ yếu đó là phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng..., tức văn hoá. Văn hoá còn - đất nước sẽ giành lại được. Lại một trường hợp noi theo tấm gương của vị Hội trưởng Hướng Thiện đầu tiên - “trước dòng nước xiết phải biết dũng cảm thoái lui”! Nguyễn Trọng Hợp dũng cảm thoái lui, “tàng” để chuẩn bị cơ sở văn hoá, cũng tức giáo dục con người, nên không có gì lạ khi cháu nội, cháu ngoại của ông là tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác và phó bảng Hoàng Tăng Bí cùng tham gia Đông Kinh nghĩa thục (bất luận ông muốn hay không muốn họ tham gia!).
5.2.2. Nguyễn Trọng Hợp quả là có quan hệ thực với các phả Thiện ở đền Ngọc Sơn, nhưng không phải để “kìm hãm” Nguyễn Văn Siêu như có nhà nghiên cứu đã viết, bởi lẽ đơn giản ông Siêu mất năm 1872, mà suốt thời gian từ khi đỗ tiến sĩ năm 1868 đến 1873 ông Hợp là Tri phủ Xuân Trường - Nam Định, rồi được điều về Huế làm Phủ doãn Thừa Thiên, tức vắng mặt ở Hà Nội thì kìm hãm sao được. Trong một sách chữ Hán về các di tích văn hoá ở Hà Nội, được biên soạn khoảng cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, ở đoạn viết về đền Ngọc Sơn có ghi: Kinh lược sứ Bắc kỳ Nguyễn Trọng Hợp năm 1886 “suất” (tức lãnh đạo, dẫn dắt) phả Lạc Thiện trùng tu và làm thêm đồ thờ cúng trong đền, năm 1897 trùng tu cầu Thê Húc. Điều đặc biệt cần chú ý là không thấy sách này ghi quan Kinh lược đầy quyền uy “suất” một đền chùa nào khác nữa, chứng tỏ ông có “chủ trương” riêng (xin nhắc lại: đây là chữ dùng trên câu đối trong đền Ngọc Sơn) đối với cả ba phả Thiện đền Ngọc Sơn, mặc dù mỗi phả có Phả trưởng, Phả phó riêng. Chủ trương mà cháu họ Nguyễn Văn Siêu và học trò Nguyễn Văn Lý đưa ra nhằm thống nhất hành động trong hoàn cảnh cùng khốn mới, đó vẫn là: “tàng”, tàng thật sâu dưới cái vỏ tín ngưỡng dân tộc để lấy Thiện tu thân, duy trì bằng được những điều quan Cơ mật viện đại thần đã kiên quyết bảo vệ trên bàn đàm phán với kẻ thù, là văn hoá (cũng tức là lòng dân!), để “chờ thời mà hành động”. Tín ngưỡng thuận lợi nhất cho mục tiêu này là tục thờ Đức Thánh Trần. Đó là lý do tại sao hai phả giữ lại chữ “Thiện” trong tên gọi mới (Tập Thiện, Lạc Thiện), mà phả thứ ba lại mang tên An Lạc, tức ấp An Lạc, theo Ngô Giáp Đậu viết trong sách
Nam Định địa dư chí là quê hương Trần Hưng Đạo.
5.3. Tục thờ Đức Thánh Trần thuộc Đạo giáo dân gian Việt Nam (gọi là “Nội đạo”, tức “Đạo bên trong”, đạo của dân tộc, không phải từ ngoài du nhập vào) luôn song hành cùng tục thờ Mẫu Liễu Hạnh. “Tháng 8 giỗ Cha (Trần Hưng Đạo mất 20 - 8 âm lịch), tháng 3 giỗ Mẹ (Liễu Hạnh mất mồng 6 - 3 âm lịch)” - riêng câu thành ngữ này đã cho thấy ảnh hưởng vô cùng to lớn của tín ngưỡng ấy trong tâm linh quảng đại quần chúng người Việt. Nội đạo rất đa dạng và phức tạp, có cả những yếu tố thần bí và mê tín. Tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ đề cập khía cạnh đặc biệt trong việc thờ cúng Đức Thánh Trần ở đền Ngọc Sơn, sau đó lan nhanh ra khắp các địa phương.
Một số tác giả viết về đền Ngọc Sơn cho rằng Trần Hưng Đạo được thờ trong đền này ngay từ khi sáng lập hay cùng lắm là chỉ “một thời gian sau”, nhưng họ không đưa ra được bất cứ căn cứ nào. Vấn đề không phải ở chỗ sớm muộn vài chục năm mà có ý nghĩa nguyên tắc đối với chủ đề của luận văn này, nên cần làm sáng tỏ. Chúng tôi khẳng định rằng trước năm 1887 không hề có hiện tượng thờ cúng Đức Thánh Trần trong đền Ngọc Sơn vì:
- Những người sáng lập hội Hướng Thiện, như trên đã nói, rất chú trọng đề tài về các anh hùng cứu quốc, vậy mà Vũ Tông Phan (mất năm 1851), Lê Duy Trung (mất năm 1863), Nguyễn Văn Lý (mất năm 1868) và Nguyễn Văn Siêu (mất năm 1872) không viết chữ nào về việc phụng thờ Đức Thánh Trần trong đền Ngọc Sơn;
- Trong sách
Les pagodes de Hanoi, xuất bản năm 1887, G. Dumoutier miêu tả khá kỹ lưỡng đền Ngọc Sơn, chỉ nói đến Quan Đế và Văn Xương, không hề nhắc tới Trần Hưng Đạo mà nếu có thờ ở đây thì chắc chắn ông đã viết vì vốn quan tâm lịch sử Việt Nam.
Như vậy việc thờ Đức Thánh Trần trong đền Ngọc Sơn chỉ xuất hiện sớm nhất là cùng với sự ra đời của phả An Lạc mang tên quê hương Ngài. Trong đền hiện còn treo câu đối của Phó trưởng môn Hồ Đình hoàng giáp Lê Đình Diên. Lạc khoản vế thứ nhất ghi: “Tháng giữa hè năm Ât hợi (1875) triều Tự Đức, nguyên Đốc học Hà Nội Lê Cúc Linh soạn”; lạc khoản vế thứ hai ghi: “Ngọc Sơn Lạc Thiện phả cung tiến”. Đã có phả Lạc Thiện, đương nhiên có hai phả kia. Như vậy có lẽ hội Hướng Thiện chia làm 3 phả ngay sau khi Nguyễn Văn Siêu mất năm 1872 và quân Pháp đánh thành Hà Nội năm 1873. Vậy việc phụng thờ Đức Thánh Trần trong đền Ngọc Sơn sớm nhất cũng chỉ có thể bắt đầu từ thời điểm đó. Tuy nhiên việc thờ ấy chỉ thực sự có ý nghĩa như Nguyễn Trọng Hợp chủ trương (“tàng”, tức duy trì chí khí và nhân tâm của sĩ phu và dân chúng thông qua hoạt động văn hoá dân tộc) từ đầu triều vua yêu nước Thành Thái (lên ngôi năm 1889) mà Nguyễn trọng Hợp làm Phụ chính đại thần. Khoảng từ thời gian đó bắt đầu việc lập đàn Thiện ngồi đồng để cầu xin thần thánh giáng bút, gọi là “phù kê. “Phù kê” có từ xưa, nhưng nay có hai điều kỳ lạ: một là, chư vị thần thánh giáng bút đều là người Việt, nhiều nhất là Đức Thánh Trần và Mẫu Liễu Hạnh (dẫu có khi giáng bút bằng chữ Hán!), và hai là, các bài kinh thường thấm đậm đạo lý cổ truyền, răn dạy đệ tử và chúng sinh giữ đạo “nhân nghĩa” và lòng “trung hiếu”.
Trong nhiều tập kinh “giáng bút” hiện lưu trữ ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội chúng tôi đã tìm thấy trong 4 sách bài
Chính kinh (chữ “chính” với nghiã đã phân tích ở trên) hoặc
Chân kinh (chữ “chân” trong từ chân chính) do Đức Thánh Trần “giáng bút”, khắc in các năm 1894, 1900, 1904 và 1909 tại các đền Ngọc Sơn và Hà Yên (Hà Nội) và một số đền khác ở Nam Định, Hải Dương. Ở 1 trong 4 sách đó có lời Tựa và Phàm lệ giải thích rõ bài kinh này được Đức Thánh Trần “giáng bút” (bằng chữ Hán, sau mới được diễn Nôm, tức chuyển dịch sang tiếng Việt ghi bằng chữ Nôm) ngày Rằm tháng 11 năm Tân mão (1891) đời vua Thành Thái ở đền thờ vọng Hà Lạc (Hà Nội - Trúc Lạc phố, ở trên bờ hồ Tây), đã đệ trình hai đền thờ chính Nam Lục (tức đền Bảo Lộc ở xã Mỹ Phúc ngoại thành Nam Định) và đền Vạn Lạc (tức đền Vạn Kiếp ở Hải Dương), các đền vọng Hà Lạc và Hà Yên (Hà Nội - Yên Ninh phố) biên tập kiểm lại, hai đền Hà Yên và Ngọc Sơn viết chữ khắc in, bản khắc lưu trữ tại đền Hà Yên, và cuối cùng đã “hội đảo” (tức hội họp cầu đảo) nghênh đón bài văn giáng bút này tại đền Ngọc Sơn.
Rõ ràng chỉ từ đây, tức từ năm 1891 tục thờ cúng Đức Thánh Trần trong đền Ngọc Sơn cũng như tại các đền miếu ở Hà Nội và ở các địa phương mới không nặng về cúng bái, cầu tài cầu lộc, trị đuổi ma tà nữa, mà đã mang một nội dung mới, tiếp nối truyền thống văn hoá - xã hội của hội Hướng Thiện và gắn liền với phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Các Nho sĩ đã mượn lời Đức Thánh Trần để kêu gọi mọi người gìn giữ đạo lý cổ truyền với năm rường mối:
Làm con thì phải làm sao chí hiếu,
Làm tôi thì phải làm sao tận trung,
Anh em thì phải làm sao thuận hoà,
Vợ chồng thì phải làm sao thực kính,
Bè bạn thì phải làm sao thực tín!
Trong bối cảnh không ít kẻ cơ hội bợ đỡ giặc để phất lên nhanh chóng, ăn chơi sa đoạ, Đức Thánh Trần cảnh tỉnh: “Các ngươi đã quy làm đệ tử ở cửa ta thì hãy mau mau tỉnh ngộ, làm điều thiện, trừ điều ác <...> Tệ hám tửu sắc, tham bạc tiền đều kiên quyết mà dứt bỏ, thói ngạo mạn, tham ô thảy nghiêm hình mà diệt trừ <...>. Sĩ, nông, công, thương, người nào việc nấy, không vương phận bọt bèo nổi trôi...” Và Ngài cũng không quên chống tệ mê tín cầu cúng khi dạy bảo rằng nếu làm theo được “nhân nghĩa” của Ngài, gìn giữ được lòng “trung hiếu” của Ngài thì “tự khắc thần yêu, quỷ sợ, hoạ đi, phúc đến; bất tất phải cầu xin thần uy của ta...”
5.4. Để quảng bá
Chính kinh và các bài kinh tương tự của chư vị thần thánh dân tộc, ví dụ
Chân kinh của Liễu Hạnh,
Chính kinh của Phạm Ngũ Lão..., người ta dựng thêm các đền thờ Trần Hưng Đạo ở nội ngoại thành Hà Nội và các địa phương. Căn cứ sách
Đại Nam thần lục, biên soạn khoảng giữa đời Tự Đức, đến giữa thế kỷ XIX trong cả nước chỉ có 27 đền thờ Trần Hưng Đạo: Nam Định - 15, Hải Dương - 4, Quảng Yên - 4, Bắc Ninh - 4, Hà Nội (bao gồm cả đất Hà Nam ngày nay) - 2. Vậy mà theo sách
Hà thành thần sắc, biên soạn năm 1909, ở riêng các phố thôn nội thành Hà Nội, tính cả đền Ngọc Sơn và 2 ngôi đền Hà Lạc và Hà Yên (đến 1909 chưa có sắc phong, chứng tỏ cũng mới xuất hiện) đã có tổng cộng 7 ngôi đền thờ Ngài. Đó là chưa kể nhiều điện thờ tại tư gia tại những phố đông dân mà sách báo có nhắc đến. Riêng tại đền Ngọc Sơn, để việc giảng kinh tiến hành được thuận lợi, theo bia hiện còn gắn trên tường, nhan đề
Tu bổ Ngọc Sơn từ bi ký, năm Thành Thái thứ 15, tức1903, phả An Lạc đã xây thêm một đàn giảng kinh mang tên
Hoằng Thiện kinh đàn, vị trí ở bên trái gian chính điện. Tấm bia này có thể minh chứng cho mấy điểm sau đây:
- Trong số phả viên An Lạc có con cháu và môn sinh các vị sáng lập hội Hướng Thiện, tức là họ vẫn nối tiếp sự nghiệp của cha ông và thày học: Vũ Cư (đích tôn của Vũ Tông Phan), Bùi Ngọc Đường, Bùi Huy Tấn (cháu họ của Bùi Huy Tùng), Vũ Cẩn và Vũ Hán Bích (con cháu Vũ Đức Quang), Nguyễn Huy Liên (cháu Nguyễn Huy Đức), Hoàng Đạo Thành (môn sinh Nguyễn Văn Siêu), Nguyễn Duy Nhiếp (con Nguyễn Trọng Hợp) v.v...
- Mối quan hệ mật thiết của các phả Thiện đền Ngọc Sơn với Đông Kinh nghĩa thục: cùng với họ tên các phả viên đóng góp tiền công đức, có khắc tên của hai yếu nhân trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục sau này là cử nhân Lương Văn Can và hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền.
Chính nhân tố này đã thúc đẩy các phả Thiện Ngọc Sơn nhanh chóng dấn thân, chuyển từ “tàng” sang “hành” với “Vụ đền Ngọc Sơn” nổi tiếng tháng 3 năm Bính Ngọ (1906), tiếp ngay là vụ diễn thuyết Rằm tháng Giêng năm sau, 1907, đã nhắc đến ở đầu báo cáo này của hai “cậu Cử” Lương Trúc Đàm và Dương Bá Trạc, đều bị cảnh binh Pháp ập đến vây bắt. Chúng tôi cho rằng hội viên của 3 phả Thiện Ngọc Sơn chắc hẳn đã trở thành một lực lượng đáng kể triển khai hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục chẳng những ở Hà Nội mà còn ở nhiều địa phương, bởi vì trên bia nói trên có khắc tên một số phả viên An Lạc từ Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây.
Một điều càng thú vị nữa là trên tấm bia công đức của phả An Lạc còn khắc tên của một loạt các vị quan đương chức trong triều Nguyễn và chính quyền bảo hộ, trong đó nhân vật rất đáng chú ý là Tuần phủ Bắc Ninh Đoàn Triển (1854 - 1919, đỗ cử nhân năm 1886), sau còn thăng đến Tổng Đốc Bắc Ninh và Nam Định. Về tư tưởng duy tân giáo dục của Đoàn Triển E. Poisson đã viết. Chúng tôi chỉ xin bổ sung hai điều: một là, theo một tấm bia mới phát hiện năm 2001 ở làng Hữu Thanh Oai huyện Thanh Trì Hà - Nội Tuần phủ Đoàn Triển đã tự bỏ tiền, ruộng của mình ra để lập tại đây từ năm 1906 một trường dạy chữ quốc ngữ và những môn học theo học quy mới mà chính ông đã kiến nghị. Ông cùng một vị quan lớn khác là Tổng đốc Bắc Ninh phó bảng Phạm Văn Thụ thường đứng tên với một số Nho sĩ như Phạm Huy Hổ, Ngô Giáp Đậu, Hoàng Đạo Thành biên soạn “tân thư” cho nền tiểu học và trung học mới. Phải chăng họ cũng ra làm quan theo chủ trương “tàng” của Nguyễn Trọng Hợp mà học giả phương Tây nọ đã đoán ra thâm ý? Có lẽ phải nghiên cứu kỹ hơn về liên hệ tư tưởng và những quan hệ thực tế khác nhau (người chống phá, người ngấm ngầm ủng hộ) của các ông quan thời kỳ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX với phong trào văn thân yêu nước, bởi dẫu sao họ vẫn cùng một hệ tư tưởng Nho giáo và cùng một lò đào tạo.
5.5. Chẳng phải ngẫu nhiên Thống sứ Bắc kỳ gửi thông tư “Mật” cho Công sứ các tỉnh chỉ thị cho biết ngay về các đền miếu có giảng “Thiện thư”, lại đặc cách “noté” các đền Ngọc Sơn, Quan Thánh với những hội có “sáng lập viên” (?) là Nguyễn Thượng Hiền, Đào Nguyên Phổ, Cử Can... (Vũ Tuân Sán). Ông ta bắt đầu đánh hơi thấy mối quan hệ của các đàn giảng kinh “giáng bút” của chư vị thần thánh Việt Nam với phong trào văn thân yêu nước. Giá như mà tìm được “sổ đen” của mật thám Pháp thời ấy để đối chiếu với danh sách các phả viên trên các bia trong đền!
Chính quyền cảnh giác là phải lắm, bởi vì một số tài liệu gia phả cho thấy: có hậu Đông Kinh nghĩa thục.
Mặc dù mới hoạt động được có 7 tháng đã bị chính quyền thực dân đóng cửa, nhưng những tư tưởng và phương thức hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục đã lan tràn khắp Việt Nam, ngấm vào các cơ sở văn hoá - xã hội truyền thống như đền, chùa, thục xá, mà bây giờ - vì tránh chữ “thục” đã mất tín nhiệm với nhà cầm quyền chăng? - người ta gọi là là “trường hương học”, “học hiệu”.
Đích tôn của cụ Nguyễn Văn Lý là Văn Đản (1876 -?), cùng ông Tú Phật Tích (tú tài, hoạt động trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở ở làng Phật Tích - Bắc Ninh, đi tù Côn Đảo về) lập trên nền trường Chí Đình một Đông Hưng học hiệu, phả ghi “rập khuôn theo trường Đông Kinh nghĩa thục”. Muộn hơn, một người cháu nội khác là Văn Cẩm trong những năm 30 lập ra Hà Văn học hiệu ở tỉnh Hà Đông, cũng là một cơ sở hoạt động văn hoá yêu nước vì tham gia có Phan Anh, Trần Huy Liệu. Văn Cẩm sau này trở thành Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa của làng Trung tự trong Cách mạng tháng 8 - 1945.
Được trả tự do năm 1919 ông Nguyễn Hữu Cầu về mở hiệu thuốc Đông y ở Ngã Tư Sở - Hà Nội, tiếp tục thực hành “phương tiện”. Chí khí mà Cụ “tàng”, hẳn đã truyền được cho hai người con, một là nhà giáo nổi tiếng Nguyễn Hữu Tảo, Giám đốc tiểu học vụ đầu tiên trong Bộ Quốc gia giáo dục sau Cách mạng tháng 8-1945, và một người nữa còn nổi tiếng hơn với những việc từ thiện khai dân trí và trợ dân sinh là cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, tác giả bộ Hán Việt tự điển quen thuộc. Thiều Chửu tiếp tục làm những sách giáo dục đạo lý truyền thống và phổ cập kiến thức của Hội Hướng Thiện và Đông Kinh nghĩa thục. Ông tự biên soạn, quyên tiền in và phát không cho người nghèo:
Phép nuôi con (1926),
Cách trí phổ thông (1934),
Đạo đức phổ thông (1935)... Thiều Chửu từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị giữ chức Bộ Trưởng Cứu tế xã hội trong Chính phủ Nhân dân lâm thời 1945, nhưng Cụ xin không nhận để dành thời gian và sức lực cho hoạt động xã hội.
Xin dẫn thêm một ví dụ nữa cho biết ảnh hưởng sâu rộng của Đông Kinh nghĩa thục. Gia phả của chi III họ Vũ làng Mộ Trạch huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương, phần tục biên năm 1933, cho biết: Tri phủ Yên Thế cử nhân Vũ Duy Đê, do có quan hệ với Hoàng Hoa Thám, lại thường lên Hà Nội họp hành với một số văn thân yêu nước nên bị viên Công sứ Pháp nghi ngờ, bèn xin về hưu sớm vào năm 1913, lúc mới 48 tuổi, và được chấp thuận ngay. Cùng người bạn tú tài ở thôn Hạ bên cạnh Mộ Trạch, thường vẫn đưa người con trai ông tên Điềm, 16 tuổi, lên nghe những buổi giảng định kỳ ở trường Đông Kinh nghĩa thục, ông Đê về mở các lớp theo chương trình tân học ở các huyện xã trong tỉnh Hải Dương. Trong số học trò thì “Xứ Nhu”, Nguyễn Khắc Nhu, kém ông chỉ độ 6,7 tuổi nhưng đi đã phải chống gậy, là người thân tín, thường theo ông đến các nơi hoạt động hoặc ra Hà Nội họp.
Các tư tưởng yêu nước và duy tân của Đông Kinh nghĩa thục còn tiếp tục được truyền bá qua các buổi giảng các kinh “giáng bút” khác, phần lớn cũng của chư vị thần thánh dân tộc, từ sau Đông Kinh nghĩa thục được giáng bằng tiếng Việt, ghi qua chữ Nôm, phát âm lên mọi người hiểu ngay. Trong hồi ký
Nhớ nghĩ chiều hôm học giả Đào Duy Anh đã để cả một chương miêu tả hiện tượng lập thiện đàn và “giáng bút”, cũng ghi nhận rằng như một phong trào nó bắt đầu từ khi Pháp chiếm được Việt Nam, nhưng khẳng định nó chỉ phát triển mạnh mẽ do “từ năm 1908 trở đi, sau khi phong trào Duy Tân (Đông du và Đông Kinh nghĩa thục) thất bại, trước cuộc đàn áp của chính quyền thực dân, các nhà Nho ái quốc đã rút lui sau hình thức thiện đàn để tiếp tục tuyên truyền những tư tưởng ái quốc” (chúng tôi nhấn mạnh). Ông cũng cho biết có tới hơn bốn chục bản kinh bằng quốc âm được “giáng bút” trong khoảng từ 1908 đến 1929, và ngoài hai đền Ngọc Sơn và Quan Thánh mà quan Thống sứ đã “note”, ông còn nêu con số đến năm chục Thiện đàn ở khắp các tỉnh miền Bắc từ đồng bằng Nam Định - Thái Bình cho đến vùng thượng du Thái Nguyên. Học giả Đào Duy Anh từng có trong tay một bản
Đạo Nam kinh, được giáng năm 1923 tại đàn Hưng Thiện xã Hạc Châu - Nam Định và do ông đồ trường làng Nguyễn Văn Tỉnh cầm bút ghi. Ông đã thuật lại khá chi tiết bố cục nội dung của nó, trích dẫn một số đoạn dài và kết luận rằng “Có thể nói đây là tác phẩm tập đại thành tất cả những tư tưởng của giới Nho học tiến bộ trong phần tư đầu thế kỷ XX về đủ mặt đạo đức, chính trị, xã hội, kinh tế...”
Đạo Nam kinh được khắc bản in ra, rồi được in bằng quốc ngữ; được đem giảng tại Hoằng Thiện kinh đàn trong đền Ngọc Sơn và đền Quan Thánh ở Hà Nội, tại các Thiện đàn trong hầu hết các tỉnh, xâm nhập vào cả thánh địa của thực dân Pháp là “xứ Nam kỳ tự trị”: nó từng được giảng tại chùa Nhã Nam ở tỉnh Cần Thơ (tạp chí Xưa & Nay, số 29 tháng 7 / 1996)!
Năm 1929 “Đạo Nam kinh” bị chính quyền thực dân Pháp tịch thu và huỷ, ông đồ Tỉnh và những người thuyết giảng bị bắt bớ cầm tù. Tuy nhiên, truyền thống bảo tồn “phần chủ yếu” là văn hoá dân tộc qua phát huy thuần phong mỹ tục để cố kết lòng người, chờ thời cơ hành động trong tương lai, vẫn được tiếp nối. Chứng cớ là bản kinh “Tâm pháp”, cũng giáng năm 1923, nhưng tại Thiện đàn Phú Xuân ở làng Hữu Bằng huyện Thạch Thất tỉnh Sơn Tây - một căn cứ truyền thống của sĩ phu yêu nước từ thời Cao Bá Quát và gần nhất là cuộc khởi nghĩa của nhà sư Vương Quốc Chính mà người cháu họ của Vũ Tông Phan là “Đồ Mậu”, (tức ông đồ ở thục xá Mậu Hoà!) có tham gia. Đến năm 1935 bản khắc kinh
Tâm pháp được ký gửi tại đàn giảng kinh đền Ngọc Sơn. Làn sóng khủng bố tàn bạo của chính quyền thực dân khiến kinh “Tâm pháp” phải khoác cái vỏ bọc tam giáo (Nho, Phật, Lão) dày hơn, nội dung bản kinh chỉ nói đến tu thân, gìn giữ đạo lý cổ truyền, tuy nhiên tư tưởng yêu nước thương nòi ở đoạn này đoạn nọ vẫn được khéo léo “tàng” vào
Kinh tâm pháp:
Cùng non nước, cùng hình dáng ấy,
Cùng giống nòi tự bấy nhiêu lâu,
Cùng chung khí huyết một bầu:
Tiên - Long ta vẫn trước sau ghi truyền.
Tình nghĩa lúc sinh tiền khôn xiết,
Cùng màu da, xác thịt trước sau,
Kể chi già, trẻ, nghèo giầu,
Vốn là cùng giống với nhau một loài.
Vẫn là cái hồn của
Đạo Nam kinh! Cái hồn của Đông Kinh nghĩa thục! Chính vì vậy mà kinh
Tâm pháp được “sư huynh” Xuân Sơn Hoàng Đình Đống, vốn trong số phả viên An Lạc có đóng góp dựng đàn giảng kinh năm 1903 và từ khoảng những năm 20 làm Phả trưởng phả Thiện Ngọc Sơn đã thống nhất trở lại, rồi “sư đệ” Xuân Tăng Vũ Bội Hoàn, con trai ông Vũ Cư mà ông Xuân Sơn thường đi lại thăm hỏi và trao đổi về việc của Phả, nối tiếp nhau giảng hơn chục năm ở đền Ngọc Sơn và các đền chùa một số tỉnh lân cận (Vũ Đình Hoè). Có thể coi họ là những đại diện cuối cùng của hội Hướng Thiện như một tổ chức hoạt động văn hoá - xã hội rộng rãi, lặng lẽ chuẩn bị hơn nửa thế kỷ cơ sở để cho Đông Kinh nghĩa thục có thể trong một thời gian ngắn bùng phát mạnh mẽ và rộng khắp. Phả Thiện Ngọc Sơn còn tồn tại một thời gian nữa, nhưng chỉ còn hoạt động từ thiện và bảo tồn di tích.
Thời thế đã đổi thay nên thế hệ thanh niên tiếp theo “hậu Đông Kinh nghĩa thục”, dù vẫn giữ được tinh thần “nhân nghĩa”, cốt cách “trung chính” và ý thức trách nhiệm của người có học trước đồng bào còn lầm than, nhưng đã thoát ly hẳn hệ tư tưởng Nho giáo, nhanh chóng tiếp thu giáo dục “Tây học”, tiếp cận các tư tưởng dân quyền và dân chủ để sẵn sàng dấn thân vào cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do người cộng sản, “nhưng là cộng sản Việt Nam” (lời của chính ông Hồ Chí Minh) lãnh đạo. “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” nên chẳng có gì lạ là các hậu duệ của hội Hướng Thiện và của Đông Kinh nghĩa thục nhất loạt đi theo Hồ Chí Minh.
6. Để kết luận, chúng tôi xin trở lại với việc cuối năm 1945, giáp Tết khi nhân dân Việt Nam lần đầu tiên được đón năm mới trong bối cảnh đất nước đã giành được Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm phả Thiện đền Ngọc Sơn, lúc này do Xuân Tăng Vũ Bội Hoàn, là chắt nội của tiến sĩ Vũ Tông Phan, làm Phả trưởng. Khi nêu sự việc này trước đây hơn chục năm, chúng tôi chỉ lý giải rằng đó là do Hồ Chủ tịch, thông qua một số nhà Nho cách mạng, trong đó có hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền thường lui tới gia đình của thân phụ là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, chắc có biết đến các hoạt động yêu nước của hội Hướng Thiện, nên mới góp ý với các cụ trong phả Thiện giảng thêm về cái thiện lớn nhất là yêu nước, yêu dân chủ, cái ác lớn nhất là xâm lược. Nay, trên cơ sở một số tài liệu mới được công bố trong mươi năm qua, chúng tôi thấy vấn đề có lẽ xâu sắc hơn: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và phát huy cao độ chủ trương lấy Thiện tu thân và giáo hoá mọi người và tận dụng các phương thức và cơ sở văn hoá - xã hội sẵn có của các lớp thân sĩ tiền bối, cũng đã bắt rễ sâu trong tâm thức của bản thân Người và mọi người Việt Nam yêu quê hương xứ sở cùng truyền thống văn hoá dân tộc. Xin nêu vài bằng chứng:
- Theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay sau ngày đọc Tuyên ngôn Độc lập Bộ Tuyên truyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã làm lễ giỗ Trần Hưng Đạo tại Nhà hát lớn Hà Nội và trong cả nước vào 25 tháng 9 năm 1945 (tức đúng vào ngày giỗ là 20 tháng 8 âm lịch).
- Vào phút giao thừa đón năm mới 1946, Người cải trang vào đền Ngọc Sơn, nhưng quá đông không len vào được trước ban thờ Đức Thánh Trần, đành đứng ngoài bái vọng rồi lẳng lặng ra về.
- Năm 1953 khi khai mạc lớp chỉnh huấn về đường lối chính trị cho cán bộ cao cấp trong Chính phủ, Hồ Chủ tịch, một vị lãnh tụ cộng sản, đã bắt đầu bài phát biểu từ việc phân tích sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trên toàn thế giới, trong nước và trong mỗi con người.
Tài liệu đã sử dụng
I. Bằng tiếng Việt
1. Báo Dân Quốc. Chủ nhiệm: Mai Văn Hàm, chủ bút; Tam Lang, số ra các ngày 17 và 18 / 9 / 1945; tạp chí Xưa & Nay số 79, tháng 9 / 2000 in lại một số tin và bài về Lễ kỷ nệm Trần Hưng Đạo.
2. Chính (Nguyễn Duy): Đi tìm một mảnh khuyết qua bộ sách Khâm dịnh An Nam kỷ lược. P.I. Một thời kỳ khuyết sử. - tạp chí Nghiên cứu và phát triển, Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, No 5 - 6 (58 - 59), 2006, tr. 40.
3. Chương Thâu: Đông Kinh Nghĩa Thục. - nxb Hà Nội, 1982, tr. 18 - 31.
4. Cường (Lê): Đức Thánh Trần trong tâm thức Chủ tịch Hồ Chí Minh. - Xưa & Nay, số 79, tháng 9 / 2000.
5. Đại cương lịch sử Việt Nam. Trương Hữu Quýnh chủ biên. - nxb Giáo dục, T.I, tr. 457.
6. Đại Nam điển lệ toát yếu. Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác phiên âm và dịch nghĩa. - nxb TP Hồ Chí Minh, 1993, tr. 131.
7. Đại Trường (Tạ Chí): Việt Nam thời Tây Sơn. Lịch sử nội chiến 1771 - 1802. - nxb Công an nhân dân, 2007, tr. 317.
8. Hoè (Vũ Đình): Thanh Nghị. Hồi ký. In lần thứ 2, có sửa chữa và bổ sung. - nxb Văn học, 2000, tr. 255
9. Hoè (Vũ Đình): Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh. - nxb Văn hoá - Thông tin và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2001, tr. 280; xem thêm bài của ông: Vài ký ức về tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục. - tạp chí Văn hiến Việt Nam, số Tết Giáp Thân 2004; tr. 323.
10. Huy (Cao Xuân): Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu. - nxb Văn học, 1995, tr 196 - 200.
11. Hường (Vương Thị): Danh mục sách Hán Nôm in tại đền Ngọc Sơn. - tạp chí Hán Nôm, số 1 / 2000.
12. Khôi (Vũ Thế): Vũ Tông Phan, cuộc đời và thơ văn. (Biên khảo, tuyển chọn và dịch). PGS Nguyễn Đức Sâm hiệu đính. - nxb Văn học, Hà Nội, 1995.
13. Khôi (Vũ Thế): Vũ Tông Phan với văn hoá Thăng Long - Hà Nội. (Chủ biên). - Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2001.
14. Kinh Đạo Nam. Đào Duy Anh khảo chứng; Nguyễn Thị Thanh Xuân phiên âm và chú thích. - nxb Lao Động, Hà Nội 2007.
15. Nguyễn Hữu Cầu, chí sĩ yêu nước Đông Kinh nghĩa thục. Chương Thâu & Hồ Anh Hải biên soạn, - nxb Lý luận chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007
16. Lê (Nguyễn Hiến): Đông Kinh Nghĩa Thục. - nxb Văn hoá - Thông tin, 2002, tr. 85 - 89.
17. Nguyễn Tư Giản, cuộc đời và thơ văn. - Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2001, một số bài:
1. Chí (Trần Bá): Bản lĩnh Nguyễn Tư Giản qua biến động của cuộc đời (tr. 61 - 62, 69.
2. Đức (Đỗ): Nguyễn Tư Giản và bản mật sớ năm 1859, tr. 47 và 49.
3. Khôi (Vũ Thế): Nguyễn Tư Giản, Trưởng môn trường Hồ Đình, tr. 92 - 104.
4. Nghĩ nguyên đạo (Phỏng theo nguyên đạo). tr. 206 (in kèm toàn văn chữ Hán).
18. Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp. - Hội khoa học lịch sử Việt Nam và Hội khoa học lịch sử Hà Nội, một số bài:
1. Chương Thâu: Nguyễn Trọng Hợp qua những lời bình, tr. 156.
2. Sơn (Đinh Hương): Nguyễn trọng Hiệp (Hợp) với cách nhìn nhận của một nhà sử học nước ngoài (giới thiệu công trình nghiên cứu của Pino Perugia: Việt nam - Phong trào Cần vương, suy nghĩ về cuộc kháng chiến đầu tiên chống thực dân Pháp), tr.108 - 109.
3. Thuý (Hoàng Đạo): Góp ý về việc viết truyện cụ Nguyễn Quế Bình làng Kim Lủ, tr. 31.
19. Phan (Vũ Tông): Tuyển iập thơ văn. - Những người dịch: Hoa Bằng, Bùi Hạnh Cẩn... Vũ Thế Khôi tuyển chọn và giới thiệu. - Trung tâm Văn hoá và Ngôn Đông Tây, Hà Nội, 2001.
20. Poisson E.: Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam - Một bộ máy hành chính trước thử thách (1820 - 1918). Người dịch: Đào Hùng, Nguyễn Văn Sự, nxb Đà Nẵng, 2006, tr. 317 - 319.
21. Siêu (Nguyễn Văn): Phương đình tuỳ bút lục. Người dịch: Trần Lê Sáng. - nxb Văn học, 1996, tr. 177.
22. Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý. Dòng họ Nguyễn Đông Tác. - Viện nghiên cứu hán Nôm và Hội Sử học Việt Nam, nxb Văn hoá dân tộc, 2000, một số bài:
1. Hà (Nguyễn Đông): Cử nhân Nguyễn Hữu Cầu, một sĩ phu yêu nước, tr. 193 - 196.
2.Hồng (Mai), TS: Nhà giáo Nguyễn Hữu Quý, tr. 245 - 250.
3. Khôi (Vũ Thế): Nguyễn văn Lý với Vũ Tông Phan, tr. 41 - 72.
4. Nghĩa (Dương Trọng): Nhà giáo Nguyễn Hữu Tảo, 251 - 255.
5. Sán (Vũ Tuân): Cư Sĩ Thiều Chửu, một gương sáng kết hợp tinh thần yêu nước với đạo Thiền.
23. Tảo Trang: Hội Hướng Thiện và đền Ngọc Sơn. - tạp chí Hán Nôm, số 4 / 1997 in lại trong sách Vũ Tông Phan với văn hoá... sđd., tr. 192 - 213
24. Thanh (Cao Tự): Nho giáo ở Gia Định. - nxb TP Hồ chí Minh, 1996, tr. 41,57 - 59, 102, 112.
25. Thơ văn Cao Bá Quát. Vũ Khiêu giới thiệu. In lần thứ 3, có sửa chữa. - nxb Văn học, 1984.
26. Tsuboi (Yoshiharu): Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa. Người dịch: Nguyễn Đình Đầu. - Hội khoa học lịch sử Việt Nam, in lần thứ 2, Hà Nội, 1992, tr. 185.
27. Tú (Đinh): Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn. - Báo Người Hà Nội số 35, ngày1 / 10 / 1986; in lại trong tài liệu I.-14, tr. 171 - 178.
28. Tú (Vũ Băng): Từ một tấm bia mới phát hiện của cụ Đoàn Triển: biết được ngôi trường cách tân giáo dục ở một vùng quê. - trong Thông báo Hán nôm học năm 2002, Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 2003, tr. 580 - 585.
29. Tuyển tập văn bia Hà Nội. - Ban Hán Nôm, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978. q.II:
1. Bài ký đền Ngọc Sơn Đế Quân (Ngọc Sơn đế quân từ ký), tiếng Việt: tr. 68 - 70, tiếng Hán: tr.152 - 153; in lại (cả chữ Hán) trong tài liệu I.-14.
2. Bài ký sửa lại miếu Văn Xương (Trùng tu Văn Xương miếu bi ký), tiếng Việt:70 - 72, tiếng Hán: 153 - 155.
30. Văn học Tây Sơn. Nguyễn Lộc tuyển chọn, giới thiệu. - Sở Văn hoá - Thông tin Nghĩa Bình, 186, tr. 92.
II. Bằng tiếng Hán
A/ Lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm (xếp A,B,C theo tên tài liệu)
1. Bùi thị gia phả ký (trong sách Đại Mỗ Nguyễn tộc tam vương phổ ký). - Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội (từ đây viết tắt Viện NCHN), bản viết, số ký hiệu VHv. 1337. - Các cháu thứ đời 14 Huy Luyện, Huy Thiều cùng bái soạn. Đích tôn đời 15 Huy Viện bái chép. Tự Đức năm thứ 19 [1866], ngày 20 tháng 2. Về cụ Văn Mạo - tờ 30a, về ông Bùi Huy Tùng - tờ 32b - 33a.
2. Cao Chu Thần thi tập. - Viện NCHN, bản viết, dấu “1967”, nhưng ở các tr. 21a và 196a có dấu bầu dục “EFEO”, số ký hiệu A. 299. -Thơ của Cao Bá Quát, có lẫn thơ của các tác giả khác, có lẽ đóng gộp những sách khác nhau. Các tờ 12 - 25 có chùm thơ hoạ đáp Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý và Trần Văn Vi.
3. Chư gia thi văn tuyển. - Viện NCHN, bản viết, có dấu bầu dục “EFEO”, số ký hiệu A. 357. - Không tên tác giả; thơ văn của nhiều người. Có chùm thơ xướng hoạ vịnh Phương Đình (xin xem phân tích của chúng tôi trong bài “Thần Siêu dựng Phương Đình dạy học từ bao giờ”, đăng tạp chí Hán Nôm số 4 / 1995).
4. Đại Nam thần lục. - Viện NCHN, bản viết, có dấu “EFEO”, số ký hiệu A. 2913 (! sách Hán Nôm thư mục đề yếu ghi nhầm ký hiệu). - Không tác giả, không niên đại, có lẽ làm vào giữa đời Tự Đức; liệt kê danh hiệu các vị thần và các địa phương thờ cúng.
5. Đông Khê thi tập. - Viện NCHN, bản viết, số ký hiệu A. 1873. - Thơ của Nguyễn Văn Lý, có lẽ là sao từ bản được tác giả biên tập để gửi vào Bĩ thư các theo yêu cầu của Trung sứ do Tự Đức cử ra gặp, vì đã bỏ những câu, bài bộc lộ quá liễu thái độ chán ghét quan trường (chi tiết xin xem phân tích của chúng tôi trong bài in Thông báo Hán Nôm học 1998, in lại trong tài liệu 20 ở trên). Những câu, bài như vậy vẫn còn trong di cảo gìn giữ tại từ đường cụ Nguyễn Văn Lý.
6. Đông Khê văn tập. - Viện NCHN, bản viết, có dấu bầu dục “EFEO”, số ký hiệu VHv. 2375. - Tập văn xuôi của Nguyễn Văn Lý, trong đó có bài văn tế Vũ Tông Phan (ai đó ghi số La tinh 26).
7. Hà thành linh tích cổ lục. - Viện NCHN, bản viết, dấu “1967”, số ký hiệu A. 497. - Không tên tác giả, không niên đại, có lẽ vào đời Đồng Khánh; tờ 3a - về đền Ngọc Sơn.
8. Hà thành thần sắc. - Viện NCHN, bản viết, dấu “EFEO”, số ký hiệu A. 840/1 - 8. - Tập đơn xin phong sắc và bản sao các sắc phong cho các vị thần được thờ ở 8 khu phố (gọi là “hộ”) Hà Nội
9. Hạ thọ thi tập. Tự Đức Tân hợi xuân. - Viện NCHN, bản viết, dấu “1967”, số ký hiệu VHv. 1150. - Thơ, văn, câu đối con cháu, bè bạn chúc mừng Bùi HuyTùng thượng thọ 60 tuổi, trong số tiến sĩ làm thơ mừng có Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu, Lê Duy Trung v.v...
10. Kim Giang tướng công nhật lịch tuỳ ký. Thành Thái bát niên tuế tại Bính thân xuân
chính nguyệt... - Viện NCHN, bản viết, dấu “1967”, số ký hiệu A. 1125. - Tiểu sử biên niên cuả
Nguyễn trọng Hợp do con trai là Duy Nhiếp soạn năm 1896.
11. Phương Đình anh ngôn thi tập. - Viện NCHN, bản khắc in, số ký hiệu A. 188/1. - Quyển 1 và quyển 2 trong bộ Phương Đình thi tập được môn siinh tổ chức khắc in; cho đến năm 1966, theo sự kiểm kê của nhà Hán Nôm học lão thành Vũ Tuân Sán bộ ván khắc còn đầy đủ trong đền Ngọc Sơn. Có hơn hai chục bài thơ làm vào các năm 1833 - 34 phản ánh những cuộc gặp gỡ với Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Lý, Lê Duy Trung...
12. Tâm pháp thiết yếu chân kinh. Khải Định Quý hợi [1923] xuân giáng trứ tại Hoà Xá vọng từ. Bảo Đại Ất hợi [1835] thu bản ký tại Ngọc Sơn kinh đàn. - Thơ ca “giáng” bút của Liễu Hạnh, Trần Hưng Đạo, Phùng Khắc Khoan... răn dạy gìn giữ đạo lý cổ truyền (làm sách từ 1923 ở Hoà Xá - Hà Đông, sau lại “giáng” tiếp năm 1927 ở đàn Phú Xuân làng Hữu Bằng - Sơn Tây).
13. Thọ Xương huyện triệu tự lệ thuyết. - Viện NCHN, bản khắc in, dấu “1967”, số ký hiệu VHv. 2605 và A, 731. - Bạ tịch Văn chỉ của huyện Thọ Xương tỉnh Hà Nội, cuối bài Tựa khắc niên đại Thiệu Trị năm thứ 4 (1844), có danh sách hội viên đến năm 1870.
14. Thượng Phúc tiến sĩ Lê đại phu hành trạng. - Viện NCHN, 1 bản viết, có dấu “1974”, số ký hiệu VHv. 2606. - Tiểu sử tiến sĩ Lê Duy Trung do cháu Lê Tư viết; ở cuối có phụ chép bức thư của Vũ Tông Phan gửi Lê Duy Trung năm 1838 (nguyên bản và bản dịch có trong tài liệu ở phần I, 13 và 18).
15. Trần triều hiển thánh chính kinh tập biên. Thành Thái Canh tý [1900] trọng xuân thuyên. - Viện NCHN, bản khắc in, dấu “1967”, số ký hiệu A. 2382. - Bài kinh giáng bút của Đức Thánh Trần răn dạy người đời giữ đạo Trung - Hiếu.
B/ Bảo quản tại các dịa phương và gia đình
B/1. Văn bia
- Trong đền Ngọc Sơn (đứng quay mặt vào đền)
1. Ngọc Sơn Đế Quân từ ký. - Bia gắn trên tường hậu điện nơi hiện nay thờ Trần Hưng Đạo. Lạc khoản khắc cuối bài ký cho biết tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm 1843, nội dung ghi quá trình hội Hướng Thiện sáng lập đền và tôn chỉ mục đích của Hội. Có trong các tài liệu I.-13, 14, 28.
2. Hợp tư tính thị bi ký. - Bia ghi họ tên, quê quán khách thập phương và hội viên Hướng Thiện đã đóng góp thêm kinh phí xây dựng đền trong các năm 1841 - 1843. Bia gắn trên tường đối xứng với bia trên.
3. Tu bổ Ngọc Sơn từ bi ký. - Bia gắn trên tường bên phải, bước vào đền ở ngoài cùng. Cột chữ đầu tiên cho biết phả An Lạc dựng đàn giảng kinh năm 1903 và ghi tên các vị quan và sĩ phu đóng góp công đức.
4. (Trán bia không có dòng đầu đề). - Bia gắn trên tường đối diện bia trên đây, ghi họ tên các phả viên An Lạc và khách thập phương đóng góp công đức; lạc khoản khắc “Thành Thái thập lục niên tuế thứ Giáp thìn [1904]... Phả An Lạc kính cẩn ghi”
5. Thọ Xương tiên hiền từ vũ bi ký. - hiện dựng tạm trong gian nhà ở ngõ Văn Chỉ phố Bạch Mai. Văn chỉ Thọ Xương sau 1954 đã bị trưng dụng làm trường kỹ thuật nấu ăn; cách đây không lâu còn là trường tiểu học tư thục, nay vừa mới được công nhận là di tích lịch sử - văn hoá của Văn chỉ Thọ Xương. Lạc khoản khắc cuối bài ký cho biết tiến sĩ Nguyễn Văn Lý soạn năm 1838, nội dung về quá trình lập Văn hội và xây Văn chỉ thọ Xương, mục đích của việc tạo lập này.
6. Trùng tu Hoả thần miếu bi ký. - vẫn gắn trên tường miếu này ở 30 Hàng Điếu - Hà Nội; lạc khoản khắc rõ tác giả bài văn bia soạn năm 1941 là tiến sĩ Vũ Tông Phan, chứ không phải là Tri huyện Nguyễn Thế Thường như “Từ điển di tích và văn hoá Việt Nam” (1993) viết.
7. Liên Đình Nguyễn tiên sinh bi. - hiện vẫn dựng trong nhà bia trước từ đường dòng họ Nguyễn - huy ở làng Hạ Thái huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây; bài văn bia do Trưởng môn là cử nhân Lương Văn Can soạn năm 1903.
B/2. Gia phả và thơ văn
1. Dòng họ tiến sĩ Vũ Tông Phan:
a. Vũ tộc Hoa phổ. - sao lại phả cũ vào năm 1905 đời Thành Thái, hiện cất giữ tại gia đình cụ Trưởng tộc Vũ Đình Hoè ở quận Ba Đình - Hà Nội, cùng những ghi chép và lời kể của một số vị lão thành trong họ và trong dòng họ môn sinh kết nghĩa ở Mậu Hoà thục. Về quá trình tìm lại được và thẩm định văn bản xin xem trong tài liệu I.-14.
b. Lỗ Am di cảo thi tập. - tập sách viết tay chép khoảng 400 bài thơ của Vũ Tông Phan, cũng cất giữ tại nơi trên. Về quá trình tìm lại được và thẩm định văn bản cũng xin xem trong tài liệu I.-14
2. Dòng họ tiến sĩ Nguyễn Văn Lý:
a. Đông tác Nguyễn tộc tông phổ. - Do cháu đời thứ 10 là cử nhân Nguyễn Hữu Quý sao và viết tiếp vào năm 1892 đời Thành Thái, hiện cất giữ tại từ đường cụ Nguyễn Văn Lý ở làng Trung Tự quận Đống Đa - Hà Nội, do hậu duệ dòng đích là nhà giáo Nguyễn Trà (gần 80 tuổi) đèn nhang. Có “Tự truyện” của Nguyễn Văn Lý. Theo truyền thống viết phả xưa, cụ Quý chỉ viết đến đời trên mình, nhưng cũng để lại “Tự truyện”. Một số truyện về con cháu cụ Nguyễn Văn Lý do thân phụ ông Trà ghi chép và ông kể.
b. Đông Khê thi tập (2 quyển). - Di cảo của tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, đầy đủ và phong phú hơn bản lưu trữ tại Viện NCHN (xin xem II.A/5.) - Hiện một hậu duệ khác (cùng thế hệ ông Trà) là Đại tá
Hải Trừng tạm giữ tại tư gia để khảo cứu).
3. Dòng họ hoàng giáp Nguyễn Tư Giản:
a. Vân Điềm - Du Lâm Nguyễn tộc hợp phả. - do Nguyễn Tư Giản (tên cũ Văn Phú) “thuật” năm 1847. - Nguyễn Tư Giản cũng chỉ “thuật” đến đời trên mình. Hiện lưu giữ tại gia đình cụ Nguyễn Phiên, hậu duệ dòng đại tông ở làng Vân Điềm huyện Đông Anh - Hà Nội.
b. Nguyễn Phiên - Truyện họ Nguyễn làng Vân Điềm - Đông Anh - Hà Nội, chế bản vi tính năm 2000. Truyện về các thế hệ sau của Nguyễn Tư Giản, do cụ Nguyễn Phiên từng được nghe một người thế hệ trước kể lại.
4. Dòng họ cử nhân Nguyễn Huy Đức:
Di trạch đường hậu phả. - do nhiều hậu duệ nối nhau biên soạn, Nguyễn Huy Đức có lời tựa năm 1883. phần tục biên bằng chữ quốc ngữ do chắt đích tôn Nguyễn Huy Thiều soạn.
5. Dòng họ Vũ Đức Quang:
Gia phả họ Vũ (làng Đông Cao huyện Gia Lương tỉnh Bắc Ninh). - do chắt nội của cụ Vũ Đức Quang là Vũ Túc (1890 -?) viết lại và bổ sung bằng chữ quốc ngữ năm 1969.
6. Dòng họ cử nhân Lê Ngọc Lâm:
Lê gia phổ ký. - do cháu rể Nguyễn Quế soạn, cháu ngành thứ Lê Ngọc Châu duyệt năm Giáp dần đời Duy Tân [1914], hiện lưu giữ tại gia đình Chuẩn đô đốc Hải quân nhân dân Lê Ngọc Thuỷ.
6. Dòng họ Vũ làng Mộ Trạch:
Mộ Trạch Vũ tộc thế hệ sự tích tục biên. - Phần chi III “Hiển Đức đường” do các hậu duệ từ đời 16 đến đời 21 liên tiếp tục biên, cháu đời 21 Vũ ĐìnhTriều (77 tuổi) biên tập; sự tích về Vũ Duy Đê do con trai là Vũ Đình Điềm (dời thứ 20) viết trong khoảng 1933 - 1943.
III. Bằng tiếng Pháp
1. Brocheux P. La revue Thanh Nghi et les questions littéraires (1941 - 1945). - Rev. franc. d’hist. D’outre-mer, t. LXXV (1988), p. 354
1. Dumoutier G.: Les Pagodes de Hanoi. - F.H. Schneider, 1887.
2. Poisson E.: Mandarins et subalternes au Nord du Viet Nam - Une bureaucratie à l’ epreuve (1820 - 1918). - Maisonneuve & Larose, Paris, 2004, p. 130.
Tóm tắt nội dung
Luận văn đề cập vấn đề còn ít được nghiên cứu là một số diễn biến tư tưởng trong tầng lớp sĩ phu đầu triều Nguyễn sau những biến động to lớn thời kỳ ba chục năm cuối thế kỷ XVIII và trước những “mâu thuẫn không thể hàn gắn nổi” (Cao Xuân Huy) của triều đại mới.
Là những môn đồ của Khổng Tử các Nho gia đầu triều Nguyễn đương nhiên muốn đem sở học ra phò vua giúp nước, nhưng lại lâm vào nghịch cảnh: phải phò tá vương triều nói “vương đạo” (cai trị bằng nhân nghĩa), làm “bá đạo” (áp đặt bằng cường quyền). Và họ đã tìm được đối sách bằng một cách giải quyết mới mẻ vấn đề của Nho gia là “hành - tàng”: dũng cảm rút lui, “tàng” trước cường quyền để “hành” trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, làm những việc có ích cho mọi người, qua đó mà giáo hoá họ, trước hết là những người dân nơi làng quê vốn là cơ sở của văn hoá Việt.
Mục đích ấy đòi hỏi phải có một tổ chức mới, tập họp rộng rãi hơn các hội tư văn mà quy chế bắt buộc phải có khoa danh để được tham gia. Họ đã lập ra hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn. Và họ đã tập dượt cùng nhau và cùng các tầng lớp xã hội khác trong Hội (như thương nhân, chẳng hạn) hoạt động văn hoá - xã hội: mở các trường lớp tư thục ở thôn quê, làm sách về danh nhân đất nước và phổ cập kiến thức sơ đẳng của đạo Nho và kiến thức bình thường trong cuộc sống như vệ sinh cá nhân, tổ chức thuyết giảng đạo lý cổ truyền, bài trừ mê tín dị đoan v.v... - những việc mà sau này Đông Kinh Nghĩa Thục sẽ phát huy cao độ.
Một điều quan trọng đã diễn ra trong thực tế là hoạt động của họ đã chuẩn bị các cơ sở sâu xa về văn hoá - xã hội cho Đông Kinh Nghĩa Thục cả về nhận thức tư tưởng (trung với dân, lo cho dân, mở mang trí tuệ cho dân), cả về phương thức hoạt động (mở trường, thuyết giảng), cả về nhân sự (các ông đồ từ đây có thói quen vận động người khác cùng làm).
Mặc dù dưới chính thể quân chủ chuyên chế chưa có điều kiện truyền bá các “chủ trương” (danh từ của chính họ!) của mình, lớp người tiên phong trong hoạt động văn hoá - xã hội ở Hội Hướng Thiện vẫn truyền được chúng qua hai con đường là gia đình-dòng họ và môn sinh, thế hệ nối tiếp thế hệ từ hội Hướng Thiện đến Đông Kinh nghĩa thục. Với một số ít ỏi tài liệu tài liệu của thời trước và gia phả mới bắt đầu tiếp cận được gần đây (từ khi có đường lối Đổi mới) cũng đã lần mò ra được những tuyến truyền thừa như vậy.
(Hà Nội -- Aix-en-Provece, tháng 1 - tháng 5/2007)
Vũ Thế Khôi (Đại học Hà Nội)
1 Theo lời cụ Hoàng Đạo Thuý có mẹ là con gái Phạm Hội thì thân phụ ông Phạm Quỳnh là tú tài Phạm Điển được thừa tự người con trai mất sớm của ông Phạm Hội. Ông Hội cũng là môn sinh của Lập Trai Phạm Quý Thích, đỗ cử nhân năm 1819, làm Giáo Thụ phủ Anh Sơn một thời gian ngắn, năm 1824 đã cáo hưu về mở trường dạy học ở đầu thôn Tự Tháp. Ông cũng là thành viên Văn hội Thọ Xương và hội Hướng Thiện, từng thay mặt hội Hướng Thiện làm hai bài văn kính cáo Quan Thánh đế quân và Văn Xương đế quân về việc đền miếu trên đảo Ngọc nay đều do Hội thờ cúng. Ông Phạm Quỳnh có một thời gian là Hội trưởng Trí Tri, một tổ chức xã hội hoạt động văn hoá - giáo dục trước và sau Đông Kinh Nghĩa Thục, nhưng rất tiếc còn ít được nghiên cứu. Hội quán Trí Tri ở phố Hàng Quạt nay là một cơ sở giáo dục thường xuyên và trụ sở của Câu lạc bộ “Chiến sĩ diệt dốt”, tập hợp các cựu cán bộ Hội Truyền bá quốc ngữ và Bình dân học vụ.