Trói tù Phồn! Trói tù Phồn!
Tai thủng rách mặt dắt về Tần.
Vua thấy thương tình, không nỡ giết,
Lệnh truyền đem giải sang Ngô, Việt.
Sổ bộ ghi xong, cai áo vàng
Cho xe chở họ khỏi Trường An.
Mình mẩy bị thương mặt đầy vết,
Mang bệnh, mỗi ngày một trạm, lết.
Sớm ăn đói khát, bát mâm chi,
Tối ngủ máu me giường chiếu bết.
Gặp dòng sông bỗng nhớ Giao Hà,
Buông xuôi tay cùng nghẹ tiếng ca.
Một bác tù than cùng cả bọn:
Khổ anh đâu sánh khổ tôi mà!
Anh em xúm hỏi thăm nguồn ngọn,
Toan nói, uất cồn lên cổ họng.
Rằng: tôi quê vốn ở Lương Ngươn,
Đại Lịch sa chân đến Thổ Phồn.
Thổ Phồn bốc chục năm trôi nổi,
Mặc áo da cừu lông thắt dải.
Được mang Hán phục buổi đầu năm,
Khoác áo chít khăn lệ ứa thầm.
Định lẻ vợ con nơi đất Thổ,
Quê nhà tìm cách trốn về thăm.
Nghĩ bụng may còn đôi chút sức,
E nữa tuổi già về chẳng được.
Trời Phồn chim khó lọt vòng canh,
Trốn về liều chết thoát thân mình.
Đêm đi ngày nghỉ qua sa mạc,
Trăng tối mây mù đầy gió cát.
Nấp liều cỏ lạnh mộ Chiêu Quân,
Lẻn vượt sông Hoàng băng đóng lớp.
Bỗng nghe quân Hán trống chiêng dồn;
Chạy ra vái lịa đón bên đường.
Quân kị chẳng thèm nghe tiếng Hán,
Tướng truyền trói lại: "Mày quân Phồn!"
Đày đến Giang Nam miền nước độc,
Ma nào thăm hỏi, ai săn sóc!
Xót thân ngửa mặt lặng kêu trời,
Cay đắng ngày tàn bóp bụng thôi!
Quê cũ Lương Ngươn không được thấy,
Đất Hồ luống bỏ vợ con rồi!
Qua Phồn bị tù, nhớ đất Hán,
Về Hán làm tù Phồn mới chán!
Biết nông nỗi ấy nỏ về chi,
Khổ cả hai bên thà một chốn.
Trói tù Phồn!
Trong bọn, riêng tôi khổ quá chừng!
Từ trước oan này e chửa có:
Lòng Hán, tiếng Hán, lại thân Phồn!