二徵廟

邯鄲禍孽起蕭墻,
內屬車書漢及唐。
傘珥山河此千載,
一雙毫傑女徵王。

 

Nhị Trưng miếu

Hàm Đan hoạ nghiệt khởi tiêu tường,
Nội thuộc xa thư Hán cập Đường.
Tản, Nhĩ sơn hà thử thiên tải,
Nhất song hào kiệt nữ Trưng Vương.

 

Dịch nghĩa

Mầm hoạ Hàm Đan, gây nên từ bên trong,
Thời Hán, Đường, đất nước ta ở trong vòng nội thuộc.
Nghìn năm còn đó núi Tản, sông Nhị,
Cùng hai vị hào kiệt là Trưng Nữ Vương.


Nguyên chú: Miếu ở ngoài thành, cách cửa đông hai dặm phía bắc sông Nhĩ Hà, thuộc xã Đồng Nhân, huyện Thanh Trì. Sử ký chép: Trưng Vương họ Trưng, vua chị là Trưng Trắc, vua em là Trưng Nhị đều là con gái của Hùng tướng, người ở Mê Linh nay là xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách, bị Thái thú Tô Định giết hại, vì thế cùng em gái dấy binh đánh chiếm 65 thành trì, được dân chúng dựng làm vua, đặt kinh đô ở Phong Châu. Khi hai bà bại trận rồi mất, các triều đại sau sắc phong là Trinh Liệt Nhị Trưng Vương, dựng tượng đá ở đền thờ. Đời truyền rằng: Nước sông chảy trôi tượng đá đến bãi Đồng Nhân, dân chúng dựng đền thờ ở đó. Có lẽ là nhầm.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]