Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Bàng Bá Lân
Đăng bởi Nguyên Minh vào 20/10/2008 21:42, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 09/12/2014 15:46
Trời cao, mây bạc, trăng tròn,
Đê than hiu quạnh, tre buồn nỉ non.
Diều ai gọi gió véo von,
Cành xoan đùa ánh trăng suông dịu dàng...
- Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?
Trăng quêHai câu cuối của bài thơ này được nhiều người nhầm tưởng là ca dao. Sách Ca dao tục ngữ Việt Nam (1955) của Vũ Ngọc Phan cũng có in hai câu này.
Trời cao, mây bạc, trăng tròn,
‡ Dế than hiu quạnh, tre buồn nỉ non.
Diều ai gọi gió véo von,
Cành xoan ‡ dìu ánh trăng suông dịu dàng...
- Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?
Trang trong tổng số 1 trang (7 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 20/10/2008 01:42
Có 1 người thích
Bài này của Bàng Bá Lân giai đoạn Thơ Mới, không phải đồ cổ đâu các bạn. Search lại đi.
Gửi bởi Nguyên Minh ngày 20/10/2008 12:01
Có 1 người thích
Trước hết, xin cảm ơn bạn với phát hiện này!
Nhưng, Nguyên Minh nếu có sai thì cũng vô tình, lỗi là tại Mẹ mình đó! (Sinh năm 1914. Đặc biệt là không biết chữ) đã hát ru mình ngủ.
Tiện đây, bạn giúp mình thêm vào vốn chung của Thi viện bài thơ ấy của Bàng Bá Lân nhé!
viết lúc 1 giờ sáng ngày 21/10/2008
Gửi bởi Hoa bim bim ngày 11/02/2010 11:15
Có 1 người thích
TRĂNG QUÊ
Trời cao, mây bạc, trăng tròn,
Dế than hiu-quạnh, tre buồn nỉ-non
Diều ai gọi gió véo-von,
Cành xoan đùa ánh trăng suông dịu-dàng…
- Hỡi cô tát nước bên đàng!
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?
Trích trong tập Thơ Tình Bàng Bá Lân
( Gửi bạn Nguyên Minh)
Gửi bởi Long Hoàng Nguyễn ngày 08/12/2014 09:20
Ca dao dân ca Việt Nam tràn ngập ánh trăng vàng. Có vầng trăng thề nguyền, ước hẹn. Có vầng trăng thương nhớ, đợi chờ. Có vầng trăng li biệt, man mác bâng khuâng:
Vầng trảng ai xẻ làm đôi,Có vầng trăng chênh chếch ngọn tre làng. Có cảnh tát nước đêm trăng. Vầng trăng và thôn nữ sao mà dẹp và đáng yêu thế:
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?
Hỡi cô tắt nước bên đàng,Mặc dù được thi sĩ Bàng Bá Lân sáng tác, nhưng hai câu thơ này từ lâu được lưu truyền trong dân gian và nhầm tưởng là ca dao. Điều đó minh chứng cho tính gần gũi và dân dã của hai câu thơ này.
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng,Có cảm được vẻ đẹp nguyên sơ của vầng trăng ca dao dân ca thì mới cố thể cảm được cái hay của vầng trăng trong cổ thi – trăng trong thơ Lý Bạch, trong thơ Nguyễn Trãi, trăng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, trăng trong thơ Nguyễn Khuyến và “trăng xưa, hạc cũ với xuân này” trong thơ Bác Hồ kính yêu…
Ai đem người ngọc thung thăng chấn này?
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 08/12/2014 15:34
Các nhà văn, khi viết về đồng quê, thường hay dẫn câu “ca dao” mà họ cho là rất nên thơ, tả được vẻ đẹp và sự thú vị của cảnh đêm trăng nơi thôn dã:
Hỡi cô tát nước bên đàngHai câu trên đây thực sự có phải là “ca dao” không?
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?
Gần đây tôi vừa được đọc Văn hoá nguyệt san do Bộ Quốc gia Giáo dục (Sài Gòn) xuất bản. Trong số 1, bài Lời nói đầu có nói đến một câu ca dao:Như thế, muốn nhận hai câu ấy là do mình sáng tác chứ không phải “ca dao” và đính chính cho đúng nguyên văn, nhà thơ Bàng Bá Lân buộc phải nêu xuất xứ của hai câu ấy. Anh viết:
CÔ KIA tát nước bên đàng,
Sao cô MANG ÁNH trăng vàng đổ đi?
Đọc câu đó, tôi vừa sung sướng vừa ngại ngùng. Sung sướng vì thấy những câu thơ của mình làm từ hồi tâm hồn mình còn trong trắng đã dần dần rời bỏ tập thơ để nhập vào hàng ngũ những vần thơ của dân tộc, của đất nước... Ngại ngùng vì nhận thấy những vần thơ được truyền tụng kia cứ sai dần mãi. Như câu thơ trên, cách đây trên mười năm, báo Bạn đường ở Trung Việt đã trích đăng trong mục “Hương hoa đất nước” cũng có sai, nhưng còn sai ít:
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ÁNH trăng vàng đổ đi?
Chữ ÁNH thêm vào làm non hẳn lời thơ nhưng còn giữ được chữ MÚC, nghĩa là còn giữ được gần trọn thi vị.
... Như câu lục bát trên này, tất cả duyên dáng thi vị của nó là ở mấy chữ MÚC và ĐỔ, nhất là chữ MÚC. Mất chữ đó là mất hết cả thi vị. Vì – hãy khoan nói đến thi vị của trăng – riêng hai chữ MÚC, ĐỔ không những hình dung được sự cử động nhịp nhàng của người tát nước mà còn gợi được âm thanh của nước động xì xòm.
Nhưng đính chính là một điều không dễ gì, nhất là khi câu thơ đã được liệt vào ca dao. Không nói rõ xuất xứ thì ai chịu, nói đến xuất xứ thì lại phải trương “cái tôi” ra! Thật là đáng ghét và thật là ngại ngùng. Cũng vì thế nên tôi đã không đính chính khi báo Bạn đường đăng sai.
Nhưng nay thấy câu thơ càng được truyền nhiều càng sai thêm, tôi thấy – đối với văn học nước nhà – có bổn phận phải đính chính.
(Bàng Bá Lân)
Vậy câu lục bát trên kia thế nào mới thật đúng và xuất xứ ở đâu? Thưa: đó là hai câu ở bài Tiếng hát trong trăng trong tập thơ nhỏ nhan đề Tiếng thông reo mà tôi viết xong hồi cuối năm 1934 và xuất bản vào đầu năm 1935. Xin trích ra đây đoạn đầu bài thơ ấy:Bài viết trên đây đã làm cho giới viết lách thời đó ngạc nhiên vì trước nay ai nấy đều yên trí rằng hai câu ấy là ca dao. Mười bốn năm sau (1966), học giả Nguyễn Hiến Lê cũng công nhận hai câu ấy là của Bàng Bá Lân.
Trời cao, mây bạc, trăng tròn,
Dế than hiu quạnh, tre buồn nỉ non.
Diều ai gọi gió véo von,
Cành xoan đùa ánh trăng suông dịu dàng.
- Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?
............................
Trên tả cảnh sáng trăng ở thôn quê để dưới có thể hạ chữ “múc trăng” mà không đột ngột. Chữ “lại” ngụ ý trách móc: trăng vàng đẹp thế mà sao lại vô tình múc đổ đi!
Có lẽ tại hồi đó, với cái tuổi đôi mươi, tâm hồn tôi còn trong trắng nên ý tưởng có vẻ hồn nhiên; có lẽ tại lời thơ ít gọt giũa, mộc mạc giản dị dễ gần đại chúng, hay có lẽ tại ảnh hưởng đồng quê man mác trong thơ nên nhiều câu đã dần dần lìa bỏ tác phẩm và tác giả mà nhảy vào hàng ngũ những vần thơ của dân tộc. Nhưng có điều hơi đáng tiếc là những câu truyền đúng thì ít mà sai thì nhiều...
(Bàng Bá Lân)
........Cũng dùng kỹ thuật tạo hình ảnh cả mà bút pháp của Hàn Mặc Tử làm cho ta rờn rợn, hồi hộp:
Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
....................
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Của Bàng Bá Lân thì cho ta một cảm giác mát mẻ, vui vui:
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?
Của Quách Tấn thì có cái giọng trang nhã, cổ điển:
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc,
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.
Của Huyền Viêm thì có cái vẻ trầm lặng man mác:
Trăng rơi nhè nhẹ trên sông nước
Bên chiếc đò khuya bóng lạnh lùng.
Gió cũng nghe chừng như nín thở
Đỡ vừng trăng lạc giữa không trung.
Tôi quen anh Bàng Bá Lân từ năm 1965 và cùng dạy học chung với anh trong hơn 15 năm nên biết rõ tính anh: đứng đắn, cương trực và tử tế với bạn bè. Tôi tin rằng anh không bao giờ nhận của người làm của mình, nhất là chỉ có hai câu lục bát vì địa vị của anh trên thi đàn đã vững vàng và cả nước biết tiếng biết tên. Tôi định viết về vấn đề này đã lâu nhưng nghĩ chưa tiện lắm khi anh còn sống. Đầu năm 1988 nghe tin anh bị bán thân bất toại, tôi đến thăm anh tại nhà riêng ở đường Trương Quốc Dụng (Phú Nhuận) thì thấy anh gầy yếu lắm và cái chết có thể tính từng tháng từng ngày. Nay thì anh đã về cõi vĩnh hằng (anh mất ngày 20-10-1988, thọ 76 tuổi), tiếng tăm danh vọng đối với anh đã trở thành vô nghĩa, nhưng tôi thấy cần phải viết bài này để đính chính một sai lầm trong văn học. Tôi nghĩ nếu không ai có thể chứng minh ngược lại (ví dụ như có một tài liệu nào đó dẫn hai câu ấy trước năm 1935 là năm anh xuất bản tập thơ Tiếng thông reo trong đó có hai câu ấy) thì, theo lẽ công bằng, “cái gì của César phải trả lại cho César”.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 08/12/2014 15:45
Hai câu thơ của nhà thơ Bắc Giang: Bàng Bá Lân; và nguyên văn của nó chắc chắn là: “Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi” chứ không phải “Múc ánh trăng vàng đổ đi”.
Năm 1972, một anh bạn rủ tôi đến thăm nhà thơ Bàng Bá Lân ở một cái hẻm lớn trên đường Công Lý, Sài Gòn. Hôm ấy là Chủ nhật, ông không phải lên lớp (ông dạy ở Đại học Văn khoa Sài Gòn).
Thực ra, trước khi gặp ông, tôi cũng đã biết đến ông, một nhà thơ tiền chiến quê Bắc Giang, ông nói với tôi là đồng hương. Tôi còn biết ông phụ trách một tiết mục trên đài truyền hình Sài Gòn hồi đó.
Tiết mục mà ông phụ trách là trưng ra nhiều bức hình tư liệu về đời sống, sinh hoạt của mọi tầng lớp dân chúng ở miền Bắc trước năm 1955 như: xe thồ, đi dân công, chống lụt ở vùng chiêm trũng…
Ông có vóc người trung bình, nhanh nhẹn, trang phục bình dân, giản dị. Ông nói chuyện với chúng tôi về thời sự, kinh tế, rồi văn học, văn chương truyền miệng, thơ…
Ông thuộc rất nhiều, giọng đọc thơ rất hay. Ông đọc từ th...uyền Viêm có bài đăng trên Kiến thức ngày nay.
Tuy nhiên, chưa có ai chỉ rõ sự khác nhau giữa: “Múc ánh trăng vàng” và “Lại múc trăng vàng” như vừa nêu trên. Theo thiển nghĩ của chúng tôi, sở dĩ có sự lầm lẫn trên là do tam sao thất bản.
Rằng, quyển Ca dao tục ngữ Việt Nam của tác giả Vũ Ngọc Phan có in hai câu ca dao trên được xuất bản sau năm 1955 ở miền Bắc, còn tác giả của nó tức là nhà thơ Bàng Bá Lân lại di cư vào Nam từ năm 1954. Vì thế nhà thơ không được đọc quyển sách biên khảo của Vũ Ngọc Phan, không thấy sự nhầm lẫn đáng tiếc kể trên để lên tiếng cải chính.
Từ đó đến khi ông mất (1988), tôi chưa hề được gặp lại nhà thơ Bàng Bá Lân. Thỉnh thoảng gặp vài người bạn cố tri có lòng yêu mến văn chương, tôi lại đem tâm sự trên kể cho họ nghe. Suốt thời gian dài ấy, tôi cứ lòng dặn lòng bất cứ khi nào có dịp tôi sẽ đưa niềm tâm sự đó lên mặt báo. Rằng, nếu chưa làm được điều này thì tôi còn day dứt chưa yên. Rằng, món nợ tinh thần với nhà thơ đồng hương vẫn chưa trả được.
Ca dao là tiếng hát trữ tình, là tiếng lòng của quần chúng nhân dân lao động. Người bình dân đã thể hiện và gửi gắm vẻ đẹp tâm hồn vô cùng phong phú của mình vào những câu hát giản dị, dễ nhớ, dễ thuộc. Trong số những câu thơ trữ tình được lưu truyền rộng rãi trong cả nước, có lẽ ai ai cũng đã từng thuộc câu thơ sau đây của thi sĩ Bàng Bá Lân:
Hỡi cô tát nước bên đàng,Ở trên là hai câu thơ cuối trong bài Tiếng hát trong trăng, trích trong tập Tiếng thông reo của ông in năm 1934. Sau đó nhiều người đã thuộc và truyền miệng rộng rãi nên được nhầm tưởng là ca dao.
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Đêm qua ra đứng bờ ao,Sự việc được phản ánh là lao động. Vâng, chính trong lao động mà người bình dân đã phát lộ hết vẻ đẹp hình thức cũng như nội tâm của mình:
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Cô kia cắt cỏ bên sông,
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây.
Cô kia cắt cỏ một mình,
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Để anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Hỡi cô gánh nước quang mây,
Cho anh xin gáo tưới cây ngô đồng.
Cô kia đi đường này với ta,Chính lao động là môi trường để tình cảm lứa đôi nảy nở và phát triển. Sự việc được miêu tả là đang diễn biến, không đứng yên. Cả không gian, thời gian và cảnh vật thơ mộng dường như được thức tỉnh, khua động bởi âm thanh của tiếng gàu chao vào mặt nước. Âm thanh đã không được nói đến một cách trực tiếp, cụ thể mà được gợi lên từ công việc được miêu tả.
Trồng đậu đậu tốt, trồng cà, cà sai.