Ca dao dân ca Việt Nam tràn ngập ánh trăng vàng. Có vầng trăng thề nguyền, ước hẹn. Có vầng trăng thương nhớ, đợi chờ. Có vầng trăng li biệt, man mác bâng khuâng:
Vầng trảng ai xẻ làm đôi,
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?
Có vầng trăng chênh chếch ngọn tre làng. Có cảnh tát nước đêm trăng. Vầng trăng và thôn nữ sao mà dẹp và đáng yêu thế:
Hỡi cô tắt nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Mặc dù được thi sĩ Bàng Bá Lân sáng tác, nhưng hai câu thơ này từ lâu được lưu truyền trong dân gian và nhầm tưởng là ca dao. Điều đó minh chứng cho tính gần gũi và dân dã của hai câu thơ này.
Biết bao lần em được nghe vần thơ bát ngát ánh trăng ấy. Vần thơ ngột ngào và dào dạt ánh trăng đã tắm mát và toả sáng tâm hồn em. Tâm hồn con người Việt Nam phong phú, tươi đẹp, đậm đà hương sắc hoa bưởi, hoa cà, hoa sen và toả sáng vầng trăng. Câu thơ “Hỡi cô tát nước bên đàng…” đã làm đẹp thêm tâm hồn vốn rất yêu trăng của nhân dân ta.
Thơ cổ ghi lại những thú vị chơi trăng. Có tao nhân “đăng sơn vọng nguyệt”. Có mặc khách “lên lầu thưởng trăng”. Có trăng Tầm Dương trong tiếng Tì bà. Có “thi tiên” uống rượu và nằm ngủ dưới trăng, v.v… Trăng, rượu, hoa là thú vui tao nhã ở đời. Trăng được nói đến trong hai câu thơ này là trăng đồng quê, vầng trăng với thiếu nữ, là cảnh tát nước đêm trăng.
Một cặp thơ lục bát đậm đà gió nội hương đồng đã làm hiện lên trước mắt ta cảnh vật đồng quê một đêm trăng tuyệt vời. Đó là vẻ đẹp của một cánh đồng quê bát ngát màu xanh và ngào ngạt hương lúa tràn ngập ánh trăng vàng. Đó là vẻ đẹp duyên dáng, khoẻ đẹp của một thiếu nữ đang cần mẫn tát nước dưới trăng. Suối toé, cánh tay, nét mặt và toàn thân cô gái như dát ánh trăng vàng. Đó là vẻ đẹp của con kênh xanh xanh ngời ngời ánh trăng. Gầu nước vục xuống, mặt nước xao động, muôn ánh trăng vàng tan ra lung linh huyền ảo. Cô thôn nữ tát nước một mình mà chẳng lẻ loi vì đã có vầng trăng làm bạn và còn có chàng trai làng từng thầm yêu trộm nhớ đang say mê ngắm “nàng tiên” tát nước dưới trăng. Cảnh vật và con người, lao động và tình yêu, dòng nước và con đường… đều tràn ngập ánh trăng. Hai câu thơ mười bốn từ, chỉ có một từ “trăng” mà người đọc thấy mát rượi ánh trăng. Nhà thơ dân gian đã sống nhiều với vầng trăng nơi thôn dã, đã yêu vầng trăng với một tình yêu bao la, đã phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn trai gái làng quê, nên mới nói thật hay, thật đẹp cảnh thiếu nữ tát nước đêm trăng như vậy.
Một câu hỏi bâng quơ mà tinh nghịch? “Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?” Chàng trai làng đa tinh lấp ló đâu đây? Một câu hỏi ngạc nhiên, một lời trầm trồ khen ngợi, hay một lời tỏ tình tế nhị, kín đáo của chàng trai? Tất cả đều có thể. Chân lí cuộc đời và chân lí nghệ thuật vốn đa âm và phức điệu. Trong cảm nhận của nhiều người xưa và nay là đằng sau sự miêu tả cảnh tát nước đêm trăng còn là tiếng hát giao duyên chứa chan tình thương nỗi nhớ.
Cái hay cái đẹp của câu thơ là tả ít mà gợi nhiều. Cảnh ngụ tình đầy thơ mộng. Chàng trai say mê ngắm thiếu nữ tát nước. Cảnh đẹp, người đẹp làm tôn chất thi vị, hữu tình. Dòng nước ngập ánh trăng. Mỗi gầu nước múc lên, thiếu nữ đổ đi biết bao ánh trăng vàng. Trăng tan vào nước bạc như giọt mồ hôi thiếu nữ tắm mát đồng lúa nương dâu, dệt bao mộng đẹp. Vì yêu người nên chàng trai thêm yêu trăng. Cảnh tát nước đêm trăng gợi cho ta thấy lao động là niềm vui sáng tạo. Tát nước đêm trăng hay là sự hẹn hò của những cô Tấm anh Điền nơi làng quê? Một tình yêu trong sáng, lành mạnh gắn liền với lao động có sự chứng kiến của vầng trăng.
Đến với vầng trăng ca dao, ta yêu thêm vầng trăng xứ sở, yêu thêm đồng lúa quê ta, yêu thêm người dân cày Việt Nam. Dưới vầng trăng thanh bình có biết bao mối tình trong sáng, thuỷ chung nảy nở:
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng,
Ai đem người ngọc thung thăng chấn này?
Có cảm được vẻ đẹp nguyên sơ của vầng trăng ca dao dân ca thì mới cố thể cảm được cái hay của vầng trăng trong cổ thi – trăng trong thơ Lý Bạch, trong thơ Nguyễn Trãi, trăng trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du, trăng trong thơ Nguyễn Khuyến và “trăng xưa, hạc cũ với xuân này” trong thơ Bác Hồ kính yêu…