Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 01/03/2015 11:52
蒼頡鳥跡既茫昧,
字體變化如浮雲。
陳倉石鼓又已訛,
大小二篆生八分。
秦有李斯漢蔡邕,
中間作者寂不聞。
嶧山之碑野火焚,
棗木傳刻肥失真。
苦縣光和尚骨立,
書貴瘦硬方通神。
惜哉李蔡不復得,
吾甥李潮下筆親。
尚書韓擇木,
騎曹蔡有鄰。
開元已來數八分,
潮也奄有二子成三人。
況潮小篆逼秦相,
快劍長戟森相向。
八分一字直百金,
蛟龍盤拏肉屈強。
吳郡張顛誇草書,
草書非古空雄壯。
豈如吾甥不流宕,
丞相中郎丈人行。
巴東逢李潮,
逾月求我歌。
我今衰老才力薄,
潮乎潮乎奈汝何。
Thương Hiệt điểu tích ký mang muội,
Tự thể biến hoá như phù vân.
Trần Thương thạch cổ hựu dĩ ngoa,
Đại tiểu nhị triện sinh bát phân.
Tần hữu Lý Tư, Hán Thái Ung,
Trung gian tác giả tịch bất văn.
Dịch sơn chi bi dã hoả phần,
Tảo mộc truyền khắc phì thất chân.
Khổ Huyền Quang hoà thượng cốt lập,
Thư quí sấu ngạnh phương thông thần.
Tích tai Lý, Thái bất phục đắc,
Ngô sanh Lý Triều hạ bút thân.
Thượng thư Hàn Trạch Mộc,
Kỵ tào Thái Hữu Lân.
Khai Nguyên dĩ lai số bát phân,
Triều dã yểm hữu nhị tử thành tam nhân.
Huống Triều tiểu triện bức Tần tướng,
Khoái kiếm trường kích sâm tương hướng.
Bát phân nhất tự trị bách kim,
Giao long bàn noa nhụ quật cưỡng.
Ngô quận Trương Điên khoa thảo thư,
Thảo thư phi cổ không hùng tráng.
Khởi như ngô sanh bất lưu đãng,
Thừa tướng, trung lang trượng nhân hàng.
Ba Đông phùng Lý Triều,
Du nguyệt cầu ngã ca.
Ngã kim suy lão tài lực bạc,
Triều hồ, Triều hồ nại nhữ hà!
Lối viết chữ như vết chân chim của Thương Hiệt đã mờ nhạt,
Hình chữ biến hoá như mây trôi.
Trống đá nơi Trần Thương lại đã sai,
Từ hai lối đại triện và tiểu triện phát sinh ra lối bát phân.
Đời Tần có Lý Tư, đời Hán có Thái Ung,
Các tác giả quãng giữa (Tần và Hán) không được nghe nói đến.
Bia đá ở núi Dịch bị lửa rừng thiêu mất rồi,
Truyền lấy gỗ táo khắc lại càng làm thêm tính mất chân thật.
Lối viết của Hoà thượng Huyền Quang có vẻ đau khổ, ốm yếu,
Viết chữ quý ở cứng cỏi mà thông được với ý.
Tiếc thay Lý Tư với Thái Ung không thể có lại được,
Cháu Lý Triều của ta cầm bút viết lại gần giống các ông ấy.
Quan thượng thư Hàn Trạch Mộc,
Kỵ tào Thái Hữu Lân.
Từ đời Khai Nguyên tới giờ có vài người theo lối bát phân,
Cháu Triều kia hợp với hai người này thành là ba.
Lại nữa, lối tiểu triện của cháu Triều gần được lối của thừa tướng,
Như gươm nhọn dáo dài cùng chĩa vào.
Một chữ kiểu bát phân giá cả trăm vàng,
Như con rồng bị trói tròn bắp thịt nổi cuộn.
Ông Trương Điên người Ngô quận khoe cái tài viết thảo của mình,
Lối thảo ngược với lối cổ, lại không có vẻ hùng tráng.
Giá như cháu ta không lang bang,
Thì cũng thành một người ngang với thừa tướng và quan trung lang.
Gặp Lý Triều ở Ba Đông,
Mong bài ca của ta cả tháng rồi.
Ta nay già yếu tài sức ít,
Cháu Triều ơi, cháu Triều ơi, biết làm sao!
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 28/02/2015 11:52
Thương Hiệt thôi chân chim đã cũ,
Dáng chữ thay đổi như mây vần.
Trống đá Trần Thương lại càng bậy,
Hai kiểu chữ triện sinh bát phân.
Tần có Lý Tư, Hán Thái Ung,
Giữa quãng chẳng có ai để bàn.
Bi đá núi Dịch, lửa đồng đốt,
Gỗ tạp đem khắc càng lem nhem.
Hoà thượng Huyền Quang người mảnh khảnh,
Viết chữ cứng cỏi nhưng có thần.
Tiếc thay Lý, Thái chẳng sống lại,
Lý Triều, cháu ta kể cùng gần.
Thượng thư Hàn Trạch Mộc,
Kỵ tào Thái Hữu Lân.
Từ thời Khai Nguyên giỏi bát phân.
Hai ông có thêm Triều là ba, kế chân.
Lối triện của Triều gần tướng Tần,
Gươm nhọn dáo dài cùng đua đâm.
Một chữ bát phân giá rất đắt,
Thịt u rắn chắc như rồng nằm.
Trương Úc vùng Ngô khoe thảo thư,
Lối thảo quá mới, kém hùng tráng.
Gía như cháu ta không chểnh mảng,
Ắt cùng hàng thừa tướng, trung lang.
Ba Đông gặp Lý Triều,
Suốt tháng mong ta ca.
Ta nay già yếu tài sức ít,
Triều ơi, Triều ơi, biết sao giờ!