Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 28/02/2015 23:42
梁公曾孫我姨弟,
不見十年官濟濟。
大賢之後竟陵遲,
浩蕩古今同一體。
比看叔伯四十人,
有才無命百寮底。
今者兄弟一百人,
幾人卓絕秉周禮。
在汝更用文章為,
長兄白眉復天啟。
汝門請從曾翁說,
太后當朝多巧詆。
狄公執政在末年,
濁河終不汙清濟。
國嗣初將付諸武,
公獨廷諍守丹陛。
禁中決冊請房陵,
前朝長老皆流涕。
太宗社稷一朝正,
漢官威儀重昭洗。
時危始識不世才,
誰謂茶苦甘如薺。
汝曹又宜列土食,
身使門戶多旌棨。
胡為漂泊岷漢間,
幹謁王侯頗曆抵。
況乃山高水有波,
秋風蕭蕭露泥泥。
虎之饑,下巉岩,
蛟之橫,出清泚。
早歸來,
黃土泥衣眼易瞇。
Lương công tằng tôn, ngã di đệ,
Bất kiến thập niên quan tế tế.
Đại hiền chi hậu cánh lăng trì,
Hạo đãng cổ kim đồng nhất thể.
Tỉ khan thúc bá tứ thập nhân,
Hữu tài vô mệnh bách liêu để.
Kim giả huynh đệ nhất bách nhân,
Kỉ nhân trác tuyệt bỉnh Chu lễ.
Tại nhữ cánh dụng văn chương vi,
Trưởng huynh bạch mi phục thiên khải.
Nhữ môn thỉnh tùng tằng ông thuyết,
Thái hậu đương triều đa xảo để.
Địch công chấp chính tại mạt niên,
Trọc hà chung bất ô thanh tế.
Quốc tự sơ tương phó chư Vũ,
Công độc đình tránh thủ đan bệ.
Cấm trung quyết sách thỉnh Phòng Lăng,
Tiền triều trường lão giai lưu thế.
Thái Tông xã tắc nhất triều chính,
Hán quan uy nghi trọng chiêu tẩy.
Thì nguy thuỷ thức bất thế tài,
Thuỳ vị trà khổ cam như tề.
Nhữ tào hựu nghi liệt thổ thực,
Thân sử môn hộ đa tinh khể.
Hồ vi phiêu bạc Mân, Hán gian,
Can yết vương hầu phả lịch để.
Huống nãi sơn cao thuỷ hữu ba,
Thu phong tiêu tiêu lộ nễ nễ.
Hổ chi cơ, há sàm nham,
Giao chi hoành, xuất thanh thử.
Tảo quy lai,
Hoàng thổ nê y nhãn dị mị.
Ông là chắt của Lương quốc công hàng em con bà dì của tôi,
Mười năm nay không được gặp vì các quan tấp nập.
Là con cháu của vị đại hiền mà lận đận như thế đó.
Việc không định trước được, xưa nay thường sảy ra.
Hãy coi ở hàng chú bác có đến bốn mươi người,
Có tài mà không có số mệnh nên ở dưới cùng của lớp quan lại.
Ngày nay hàng anh em có đến trăm người,
Ai là kẻ cao vời để nắm quyển Chu lễ.
Em đã dùng văn chương để tiến thân,
Người anh cả của em tài giỏi lại được trời cho óc thông minh.
Xin các em xin nghe nói về cụ tổ của mình,
Thái hậu trong triều lắm mưu kế.
Ông Địch chấp chính vào cuối đời,
Sông đục cuối cùng không làm dơ bẩn bến trong.
Vua còn nhỏ tuổi nên quyền quyết định về tay Vũ Hậu,
Trong triều trước bệ vua, ông một mình chống đối.
Từ cung cấm ra lệnh, đổi thành Lư Lăng vương và đổi ra Phòng châu,
Các vị quan triều trước nước mắt tràn trụa.
Xã hội đời vua Thái Tông rất sáng sủa,
Triều đình nhà Hán rất nghiêm trang và minh bạch.
Lúc gian nguy mới biết ai là người tài tột bực,
Có ai nói vị trà đắng mà ngọt như bồ hòn đâu.
Các em còn xứng được ban đất để sinh nhai,
Thân phải được nương nơi có nhiều cờ xí.
Làm sao mà lại phải lang bang nơi vùng Mân, Hán,
Quị luỵ các vương hầu chịu lép vế ở bên dưới.
Huống chi núi cao, mặt nước có sóng,
Gió thu vi vu, sương rơi xối xả.
Hổ đói bụng, xuống sườn non,
Cá sấu nổi, Trồi lên đầm trong.
Mau quay về đi,
Đất vàng áo dính bùn, nằm dễ ngủ.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 28/02/2015 23:42
Chắt của Lương công, em họ tôi,
Mười năm không gặp, việc túi bụi.
Con cháu quan to mà long đong,
Bất ngờ, xưa nay thường theo thói.
Thử coi chú bác bốn chục người,
Có tài không mệnh, quan ngạch cuối.
Ngày nay anh em cả trăm người,
Dâng Chu lễ, ai người tài giỏi.
Riêng em đã thích dùng văn chương,
Anh cả thông minh thêm trời đãi.
Gương ông cố các em muốn noi,
Thái hậu lúc đó ưa la lối.
Ông Địch làm quan vào cuối đời,
Sông đục không làm nhơ chỗ lội.
Vũ hậu nắm quyền thay vua con,
Giữa triều, thềm đỏ, ông tranh cãi.
Cung cấm ra lệnh đày Trung Tông.
Đại thần triều trước đều tức tưởi.
Đất nước thời Thái Tông vẻ vang,
Luôn tẩy sạch, cung Hán sáng chói.
Thời nguy, trước hết kiếm người tài,
Trà đắng ngọt như ấu, ai nói.
Các em đáng được cắt đất phong,
Thân nương cửa sang cờ phất phới
Sao phải lênh đênh vùng Hán, Mân,
Cầu khẩn vương hầu, chui xuống dưới.
Huống chi nước có sóng, non cao,
Gió thu vi vu, sương như gội.
Hổ thấy đói, xuống sườn non,
Sấu bơi ngang, nước trong nổi.
Sớm quay về,
Đất vàng, áo bùn, ngủ dễ tới.