Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Lưu vong làm quan (756-759)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 11/01/2015 17:45, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Admin vào 22/04/2024 12:45
朝光入甕牖,
屍寢驚敝裘。
起行視天宇,
春氣漸和柔。
興來不暇懶,
今晨梳我頭。
出門無所待,
徒步覺自由。
杖藜復恣意,
免值公與侯。
晚定崔李交,
會心真罕儔。
每過得酒傾,
二宅可淹留。
喜結仁裏歡,
況因令節求。
李生園欲荒,
舊竹頗修修。
引客看掃除,
隨時成獻酬。
崔侯初筵色,
已畏空尊愁。
未知天下士,
至性有此不。
草牙既青出,
蜂聲亦暖遊。
思見農器陳,
何當甲兵休。
上古葛天民,
不貽黃屋憂。
至今阮籍等,
熟醉為身謀。
威鳳高其翔,
長鯨吞九洲。
地軸為之翻,
百川皆亂流。
當歌欲一放,
淚下恐莫收。
濁醪有妙理,
庶用慰沈浮。
Triêu quang nhập úng dũ,
Thi tẩm kinh tệ cừu.
Khởi hành thị thiên vũ,
Xuân khí tiệm hoà nhu.
Hứng lai bất hạ lãn,
Kim thần sơ ngã đầu.
Xuất môn vô sở đãi,
Đồ bộ giác tự do.
Trượng lê phục thư ý,
Miễn trị công dữ hầu.
Vãn định Thôi, Lý giao,
Hội tâm chân hãn trù.
Mỗi quá đắc tửu khuynh.
Nhị trạch khả yêm lưu,
Hỉ kết nhân lý hoan,
Huống nhân lệnh tiết cầu.
Lý sinh viên dục hoang,
Cựu trúc phả tu tu.
Dẫn khách khan tảo trừ.
Tuỳ thì thành hiến thù.
Thôi hầu sơ diên sắc,
Dĩ uý không tôn sầu.
Vị tri thiên hạ sĩ,
Chí tính hữu thử phầu.
Thảo nha ký thanh xuất,
Phong thanh diệc noãn du.
Tứ kiến nông khí trần,
Hà đương giáp binh hưu.
Thượng cổ Cát Thiên dân,
Bất di hoàng ốc ưu.
Chí kim Nguyễn Tịch đẳng,
Thục tuý vị thân mưu.
Uy phượng cao kỳ tường,
Trường kình thôn cửu châu.
Địa trục vi chi phiên,
Bách xuyên giai loạn lưu.
Đương ca dục nhất phóng,
Lệ há khủng mạc thu.
Trọc lao hữu diệu lý,
Thứ dụng uỷ trầm phù.
Ánh chiều soi qua cửa tò vò,
Nằm cong queo như xác chết thì sợ rách áo.
Bắt đầu đi ra coi bầu trời,
Khí xuân ấm áp dần.
Hứng lên hết lười biếng,
Sáng nay đã chải đầu.
Ra khỏi cửa chẳng cần phải chờ đợi,
Bước đi thấy mình không bị ràng buộc.
Gậy guộc rồi lại ý phóng túng,
Xin miễn để ý tới công với hầu.
Gần đây mới quen hai ông Thôi, Lý,
Vừa ý quả là bạn hiếm.
Mỗi lần tới thăm là được nghiêng chén,
Hai nhà có thể nán lại lâu.
Mừng vui móc nối được với lòng nhân,
Huống nữa theo đó cầu được cái tính tốt.
Vườn của anh Lý như bỏ hoang,
Trúc cũ nên cắt tỉa.
Đưa khách ra coi việc cắt xén,
Theo đó là có bồi dưỡng.
Nhà ông Thôi vừa mới ngồi vào tiệc,
Đã lo buồn vì sợ chén không.
Chưa biết kẻ sĩ trong thiên hạ,
Tình thân thiết có được như thế?
Mầm cỏ vừa nhú xanh,
Tiếng ong đã bận rộn.
Ý thấy dụng cụ làm ruộng bày ra,
Sao không dẹp hết binh khí đi.
Dân họ Cát Thiên thời thượng cổ,
Chẳng phải lo lắng về xe nhà vua.
Tới giờ bọn các ông Nguyễn Tịch,
Say nhừ vì mưu thân.
Chim phượng khoẻ bay cực cao,
Cá kình lớn uống hết chín châu.
Trục đất có vì thế mà nghiêng,
Trăm sông đều chảy ào.
Khúc hát như muốn ca vang,
Lệ rơi sợ không thu lại được.
Rượu thuốc có cái hay vô cùng,
Hãy dùng nó để an uỷ nỗi chìm nổi.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 10/01/2015 17:45
Ánh mai lọt lỗ vò,
Nằm khoèo ngại áo nát.
Ra ngoài coi đất trời,
Khí xuân dần tươi mát.
Hứng lên thấy hết lười,
Sáng nay tóc chải mượt.
Ra cửa chẳng chần chừ,
Cuốc bộ thấy khoảng khoát.
Chống gậy theo ý mình,
Công hầu xin lánh mặt.
Về già quen Lý, Thôi,
Lòng bạn biết thành thật.
Khi tới được nghiêng bình,
Hai nhà đều thoáng mát.
Mừng vui quen người hiền,
Huống đang cầu tính nết.
Ông Lý vườn rậm hoang,
Đám trúc cần tỉa chặt.
Đưa khách coi khai quang,
Tuỳ lúc lại nhậu nhẹt.
Bác Thôi vừa vào ngồi,
Đã sợ chẳng nâng bát.
Liệu người hiền trong đời,
Tận tình, có giống hệt.
Mầm cỏ vừa nhú xanh,
Tiếng ong làm ngột ngạt
Nông cụ ý thấy bầy,
Vũ khí sao không cất.
Dân Cát Thiên thuở xưa,
Xe vua kia chẳng thiết.
Bọn Nguyễn Tịch tới nay,
Lo thân nhờ say khướt.
Phượng quý nhờ bay cao,
Kình dài, cửu châu nuốt.
Trục đất dù có nghiêng,
Trăm sông đều lũ thoát.
Muốn cất lời ca vang,
Chẳng thu lại nước mắt.
Rượu thuốc công hiệu nhiều,
Dùng nó quên trôi dạt.