25.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn cổ phong
Thời kỳ: Thịnh Đường
7 bài trả lời: 7 bản dịch
1 người thích
Từ khoá: chiến tranh (304) hoà bình (16)

Đăng bởi Vanachi vào 28/10/2005 18:15, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 29/03/2006 08:40

洗兵馬

中興諸將收山東,
捷書夜報清晝同。
河廣傳聞一葦過,
胡危命在破竹中。
只殘鄴城不日得,
獨任朔方無限功。
京師皆騎汗血馬,
回紇喂肉葡萄宮。
已喜皇威清岱海,
常思仙仗過崆峒。
三年笛里關山月,
萬國兵前草木風。
成王功大心轉小,
郭相謀深古來少。
司徒清鑒懸明鏡,
尚書氣與秋天杳。
二三豪俊為時出,
整頓乾坤濟時了。
東走無復憶鱸魚,
南飛覺有安巢鳥。
青春復隨冠冕入,
紫禁正耐煙花繞。
鶴駕通宵鳳輦備,
雞鳴問寢龍樓曉。
攀龍附鳳勢莫當,
天下盡化為侯王。
汝等豈知蒙帝力?
時來不得誇身強。
關中既留蕭丞相,
幕下復用張子房。
張公一生江海客,
身長九尺鬚眉蒼。
征起適遇風雲會,
扶顛始知籌策良。
青袍白馬更何有?
後漢今周喜再昌。
寸地尺天皆入貢。
奇祥異瑞爭來送:
不知何國致白環,
復道諸山得銀瓮。
隱士休歌紫芝曲,
詞人解撰河清頌。
田家望望惜雨乾,
布谷處處催春種。
淇上健兒歸幕懶,
城南思婦愁多夢。
安得壯士挽天河,
淨洗甲兵長不用!

 

Tẩy binh mã

Trung hưng chư tướng thu Sơn Đông,
Tiệp thư dạ báo thanh trú đồng.
Hà Quảng truyền văn nhất vi quá,
Hồ nguy mệnh tại phá trúc trung.
Chỉ tàn Nghiệp thành bất nhật đắc,
Độc nhiệm sóc phương vô hạn công.
Kinh sư giai kỵ hãn huyết mã,
Hồi Ngột uỷ nhục Bồ Đào cung.
Dĩ hỉ hoàng uy thanh Đại Hải,
Thường tư tiên trượng quá Không Đồng.
Tam niên địch lý “Quan san nguyệt”,
Vạn quốc binh tiền thảo mộc phong.
Thành Vương công đại tâm chuyển tiểu,
Quách tướng mưu thâm cổ lai thiểu.
Tư đồ thanh giám huyền minh kính,
Thượng thư khí dữ thu thiên diểu?
Nhị tam hào tuấn vị thì xuất,
Chỉnh đốn càn khôn tế thì liễu.
Đông tẩu vô phục ức lô ngư,
Nam phi giác hữu an sào điểu.
Thanh xuân phục tuỳ quan miện nhập,
Tử cấm chính nại yên hoa nhiễu.
Hạc giá thông tiêu phụng liễn bị,
Kê minh vấn tẩm long lâu hiểu.
Phan long phụ phụng thế mạc đương,
Thiên hạ tận hoá vi hầu vương.
Nhữ đẳng khởi tri mông đế lực,
Thì lai bất đắc khoa thân cường.
Quan Trung ký lưu tiêu thừa tướng,
Mạc hạ phục dụng Trương Tử Phòng.
Trương công nhất sinh giang hải khách,
Thân trường cửu xích, tu mi thương.
Trưng khởi thích ngộ phong vân hội,
Phù điên thuỷ tri trù sách lương.
Thanh bào bạch mã cánh hà hữu,
Hậu Hán kim Chu hỉ tái xương.
Thốn địa xích thiên giai nhập cống,
Kỳ tường dị thuỵ tranh lai tống.
Bất tri hà quốc trí bạch hoàn,
Phục đạo chư sơn đắc ngân úng.
Ẩn sĩ hưu ca “Tử chi” khúc,
Từ nhân giải soạn “Hà thanh” tụng.
Điền gia vọng vọng tích vũ can,
Bố cốc xứ xứ thôi xuân chủng.
Kỳ thượng kiện nhi quy mạc lãn,
Thành nam tư phụ sầu đa mộng.
An đắc tráng sĩ vãn thiên hà,
Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng.

 

Dịch nghĩa

Các tướng trung hưng thu lại Sơn Đông,
Tin thắng trận báo về suốt ngày đêm.
Sông rộng, nghe nói thuyên nan cũng qua được?
Vận mệnh giặc hồ mong manh như tre bị chẻ.
Còn thành Nghiệp, chưa đầy một ngày sẽ hạ xong,
Viên tướng độc nhiệm miền bắc có công rất lớn.
Ở kinh đô toàn người cưỡi giống ngựa hãn huyết,
Quân Hồi Ngột no thịt ở cung Bồ Đào.
Đã mừng vì uy danh vua dẹp yên vùng Hải Đại,
Thường nhớ khi xe ngựa vua qua núi Không Đồng.
Ba năm nghe sáo thổi bài “Quan san nguyệt” (Trăng quan ải),
Muôn nước trước đoàn quân như cỏ bị gió bạt.
Thành vương công lớn mà lòng cẩn thận, kiêm tốn,
Quách tướng mưu sâu xưa nay ít có.
Tư đồ sáng suốt như tấm gương treo,
Thượng thư khí phách cao xa như trời thu.
Vài ba kẻ tài giỏi vì thời thế mà ra,
Sắp đặt trời đất làm song việc cứu đời.
Người chạy đông không còn phải nhứ cá vược,
Kẻ xuôi nam cảm thấy như tìm về tổ ấm.
Vẻ thanh xuân lại theo các quan vào chầu,
Cung điện tôn nghiêm có hoa khói vây phủ.
Xe hạc đi lại suốt đêm, xe phượng trực chờ sẵn,
Gà gáy, sớm vào lầu rồng vấn an nhà vua.
Quyền thế bọn vin rồng náu phượng ai bì kịp,
Thiên hạ như trở thành toàn bậc hầu vương.
Các ngươi nên biết đó là nhờ uy lực của vua,
Chứ kẻ gặp thời may chớ khoe tài cậy sức.
Quan Trung đã để Tiêu Hà lên làm thừa tướng,
Dưới trướng lại dùng Trương Lương.
Ông Trương vốn là người của sông bể,
Mình cao chín thước râu tóc trắng phau.
Được vua vời, gặp hội gió mây,
Chống thế nguy, mới biết mưu giỏi.
Giặc áo xanh ngựa trắng không cò nữa,
Sau Hán nay chu lại mừng được thịnh trị.
Dù tấc đất thước trời cũng đều vào cống,
Điềm lành vật lạ đua nhau dâng lên,
Không rõ nước nào hiến vòng ngọc trắng.
Lại nghe nói trong núi bắt được bình bạc,
Kẻ ẩn dật không hát bài “Tử chi ca” nữa.
Văn nhân cho rằng phải làm bài “Từ thanh tụng”,
Nhà nông mong cho mưa nắng thuận hoà.
Khắp nơi, chim bố cốc giục gieo mạ xuân,
Lính sông Kỳ hãy về đi đừng chần chờ,
Thiếu phụ thành Nam nhớ chồng, buồn mơ nhiều...
Sao có tráng sĩ kéo sông Ngân xuống,
Rửa sạch giáo mác, mãi mãi không dùng đến nữa.


Bài này được viết năm 758, sau khi nhà Đường lấy lại được kinh đô.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (7 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nhượng Tống

Trung hưng các tướng lấy Sơn Đông,
Thắng trận tin đưa sớm, tối trùng,
Đem thế chẻ tre đè mạng giặc,
Mượn tầu lá sậy vượt dòng sông.
Sóc phương lập được bao công cả,
Nghiệp quận nay mai sẽ hạ xong,
Hồi Ngột đưa thêm quân trợ thuận,
Kinh sư đều cưỡi ngựa truy phong.
Đã mừng oai chúa vang Tề, Lỗ,
Còn nhớ xe loan tới Không Đồng.
Sáo thổi ba năm quan quan ải lạnh.
Quân đồn muôn nước gió cây rung!
Thành Vương công lớn long càng nhỏ,
Quách tướng mưu sâu đời hiếm có.
Thượng thư khí khái nhất trời thu,
Tư đồ sang suốt treo gương tỏ.
Hào kiệt vài tay ra giúp đời,
Kiền khôn sắp đặt đâu ra đó.
Sang đông khỏi nhớ cá quê nhà,
Về nam đã thấy chim yên tổ.
Áo xiêm thấm đượm ánh xuân xanh,
Hoa khói điểm tô cung cấm đỏ.
Xe hạc đêm chờ kiệu phượng về,
Canh gà sớm viếng lầu rồng ngủ.
Víu phượng, vin rồng khéo bảo nhau,
Trong đời vô số kẻ sang giàu!
Gặp thời xin chớ khoe mình giỏi,
Nên nhớ ơn vua nặng đến đâu!
Trong ải đã dùng Tiêu Tướng quốc,
Dưới màn lại sẵn Trương Lưu hầu,
Ông Trương người của miền sông biển,
Chín thước mình cao, bạc tóc râu!
Gặp hội gió mây ra giúp nước,
Nước nguy mới thấy rõ mưa cao.
Áo xanh, ngựa bạch còn chi nữa,
Đời trị, dân yên lại bắt đầu!
Gang trời, tấc đất đều vào cống,
Triệu lạ, điềm lành nhiều lủng nhủng!
Có nước đem dâng vòng "bạch hoàn",
Trong non lại được chum "ngân úng".
Thi nhân vịnh mãi cảnh sông trong,
Ẩn sĩ thiết gì cỏ tiên rụng.
Đâu đấy nhà nông thấy khát mưa,
Véo von chim nội giục: gieo giống!
Trai tài mặt trận liệu mau về!
Vợ trẻ bên thành đương tiếc mộng.
Muốn kéo dòng Ngân rửa giáo gươm,
Xếp xó từ đây không động dụng!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn phước Hậu

Chỉnh quân tướng chiếm Sơn Đông hẳn
Tin trận về thắng lớn ngày đêm
Qua sông nườm nượp ghe thuyền
Chẻ tre thế mạnh dẹp yên giặc Hồ
Thành Nghiệp độ trong ngày sẽ hạ
Tướng toàn quyền một dạ tấn công
Kinh đô người cưỡi ngựa hồng
Quân Hồi Ngột thịt rượu cung Bồ Đào.
Uy danh chúa mừng rao Hải Đại
Nhớ khi vua qua lại Không Đồng
"Trăng quan ải" sáo còn vương
Cỏ non gió bạt, muôn phương binh đoàn.
Công to lớn Thành vương hoà nhã
Quách mưu sâu hiếm lạ xưa giờ
Tấm gương sáng suốt Tư Đồ
Thượng thư khí phách cao to ngút trời
Hai ba kẻ anh tài ra giúp
Cùng sửa sang họp sức cứu đời
Sang đông như cá vượt khơi
Xuôi nam như thể chim về tổ êm.
Nét thanh lịch áo xiêm triều kiến
Hoa khói bay cung điện tôn nghiêm
Xe phượng trực, xe hạc đêm
Gà vừa gáy sớm trước thềm vấn an.
Quyền thế bọn vin rồng náu phượng
Thiên hạ thành toàn tước hầu vương
Đó nhờ ân đức của vua
Gặp thời may chớ tài khua oai hù.
Quan Trung cử Tiêu Hà thừa tướng
Lại thu dùng dưới trướng Trương Lương
Ông Trương người của bể sông
Mình cao chín thước trắng bông râu mày
Nay gặp hội gió mây vời gọi
Chống thế nguy tài giỏi mưu sâu
Giặc xanh ngựa trắng còn đâu
Sau nhà Hán đến nhà Chu an lành
Dù tấc đất trời xanh thuộc chúa
Bao điềm lành vật lạ hiển linh
Nước nào cống ngọc trắng tinh
Lại nghe trong núi bảo bình tìm ra.
Không hát "Tử chi ca" ẩn dật
Văn nhân cùng soạn đặt "Từ Thanh"
Nhà nông nắng thuận mưa lành
Chim reo gieo mạ, vụ xuân vào mùa.
Lính sông Kỳ đua về đừng đợi
Thiếu phụ Nam mòn mỏi mộng trông
Nhờ tráng sĩ kéo sông Ngân
Chìu lau gươm giáo không cần dùng lâu.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nam Trân

Trung hưng các tướng lấy Sơn Đông,
Thắng trận tin đưa sớm, tối trùng.
Đem thế chẻ tre đè mạng giặc,
Mượn tầu lá sậy vượt dòng sông.
Sóc phương lập được bao công cả,
Nghiệp quận nay mai sẽ hạ xong.
Hồi Ngột đưa thêm quân trợ thuận,
Kinh sư đều cưỡi ngựa truy phong.
Đã mừng oai chúa vang Tề, Lỗ,
Còn nhớ xe loan tới Không Đồng.
Sáo thổi ba năm quan quan ải lạnh.
Quân đồn muôn nước gió cây rung!
Thành Vương công lớn long càng nhỏ,
Quách tướng mưu sâu đời hiếm có.
Thượng thư khí khái nhất trời thu,
Tư đồ sang suốt treo gương tỏ.
Hào kiệt vài tay ra giúp đời,
Kiền khôn sắp đặt đâu ra đó.
Sang đông khỏi nhớ cá quê nhà,
Về nam đã thấy chim yên tổ.
Áo xiêm thấm đượm ánh xuân xanh,
Hoa khói điểm tô cung cấm đỏ.
Xe hạc đêm chờ kiệu phượng về,
Canh gà sớm viếng lầu rồng ngủ.
Víu phượng, vin rồng khéo bảo nhau,
Trong đời vô số kẻ sang giàu!
Gặp thời xin chớ khoe mình giỏi,
Nên nhớ ơn vua nặng đến đâu!
Trong ải đã dùng Tiêu tướng quốc,
Dưới màn lại sẵn Trương Lưu hầu.
Ông Trương người của miền sông biển,
Chín thước mình cao, bạc tóc râu!
Gặp hội gió mây ra giúp nước,
Nước nguy mới thấy rõ mưa cao.
Áo xanh, ngựa bạch còn chi nữa,
Đời trị, dân yên lại bắt đầu!
Gang trời, tấc đất đều vào cống,
Triệu lạ, điềm lành nhiều lủng nhủng!
Có nước đem dâng vòng "bạch hoàn",
Trong non lại được chum "ngân úng".
Thi nhân vịnh mãi cảnh sông trong,
Ẩn sĩ thiết gì cỏ tiên rụng.
Đâu đấy nhà nông thấy khát mưa,
Véo von chim nội giục: gieo giống!
Trai tài mặt trận liệu mau về!
Vợ trẻ bên thành đương tiếc mộng.
Muốn kéo dòng Ngân rửa giáo gươm,
Xếp xó từ đây không động dụng!

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anh Nguyên

Thâu Sơn Đông, tướng phục hưng,
Nhận thư thắng trận không ngừng ngày đêm.
Thuyền nan, sông rộng qua bên,
Hồ nguy, tre chẻ tiến lên dễ dàng.
Một ngày thành Nghiệp ắt hàng,
Tướng, công phương bắc đảm đang một mình.
Ngựa hay, người cưỡi trong kinh,
Bồ Đào, Hồi Ngột thoả tình thịt ngon.
Uy vua, Hải Đại mãi còn,
Nhớ xưa vua vượt núi non Không Đồng.
Sáo ‘‘Quan san nguyệt’’ ba Đông,
Quân đi, các nước cỏ đồng nằm yên.
Thành Vương công lớn lại quên,
Mưu sâu, tướng Quách, nghe tên mấy người?
Tư đồ gương sáng để đời,
Thượng thư khí tiết như trời thu cao.
Hai ba hào kiệt bước vào,
Đất trời, chỉnh đốn, công lao cứu đời.
Về đông, cá vược hết rồi,
Xuôi nam, chim có tổ nơi an toàn.
Quan chầu, áo mũ xênh xang,
Cung vua bao bọc bởi toàn khói hoa.
Chờ, xe hạc phượng canh tà,
Thăm vua sức khoẻ canh gà sớm mai.
Dựa hơi rồng phượng, những, ai?
Khắp trong thiên hạ thành vai vương hầu.
Uy vua, người há biết đâu,
Gặp thời, chớ có bắt đầu kể công.
Tiêu Hà thừa tướng Quan Trung,
Người tài dưới trướng, lại dùng Trương Lương.
Cả đời, khách biển họ Trương,
Thân cao chín thước, mày thường bạc phơ.
Gió mây gặp hội bây giờ,
Ngả nghiêng, giúp nước có cơ yên lành.
Không còn ngựa trắng áo xanh,
Hán xưa, Chu cũng sẽ thành thịnh thôi.
Thước trời tấc đất cống rồi,
Điềm lành việc lạ khắp nơi dâng về.
Biếu vòng ngọc trắng quý ghê,
Núi non, bình bạc hiến về lập công.
‘‘Tử chi’’ thôi hát, hết mong,
Nhà văn ca tụng nước trong sông nhà.
Dân mừng mưa nắng thuận hoà,
Tiếng chim thúc giục người ta vụ mùa.
Sông Kỳ, trai bỏ chơi đùa,
Nam Thành, thiếu phụ buồn vừa mộng ai.
Thiên Hà sao kéo, nào ai?
Giáp binh rửa sạch, chẳng sài nữa đâu...

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Thuở trùng hưng, Sơn Đông giải phóng,
Đêm ngày điện tin thắng truyền ra.
Thuyền nan sông rộng vượt qua,
Thế giặc phá vỡ như là chẻ tre.
Còn Nghiệp Thành thu về mấy chốc,
Viên chỉ huy khu bắc bao công.
Nơi kinh đô, đầy ngựa ròng,
Hồi Hột phè phỡn trong cung Bồ Đào.
Hải Đại, nhờ ơn cao, yên ổn,
Nhớ lúc vua ở chốn Không Đồng.
Ba thu liền, hành khúc vang,
Nơi nào quân đến cỏ thường dạt theo!
Thành Vương, công đã nhiều, cẩn tắc,
Tể tướng Quách, đảm lược hơn người.
Quan tư đồ, gương sáng ngời,
Thượng thư khí phách như trời thu cao.
Nhờ thời thế, anh hào xuất hiện,
Đất nước yên: một chuyến cứu đời.
Về đông cá cũ quen mùi,
Xuôi nam như nhạn tìm nơi ấm lòng.
Mũ áo chầu, một khung cảnh nổi,
Cung điện vua, hoa khói tôn nghiêm.
Phượng chực ngày, hạc chạy đêm,
Gà vừa báo sớm đã lên chầu rồi.
Dựa hơi vua bao người quyền thế,
Biết bao kẻ qui chế vương hầu.
Nhờ ơn vua, hãy nghĩ sâu,
Vận may mang đến chớ đâu mình tài!
Quan Trung, Tiêu Hà vai thừa tướng,
Lại thêm dưới trướng: Trương Lương.
Ông Trương từng trải gió sương,
Thân cao chín thước, đường đường nam nhi.
Bước công danh một khi gặp hội,
Ra sức làm mới nổi tài hay.
Áo xanh, ngựa trắng bó tay,
Sau thời Hán, mãi đến nay thái bình!
Dù nước nhỏ cúi mình thuần phục,
Bao điềm lành, phong tục tâu lên.
Vòng ngọc trắng, vật của tiên,
Lọ bạc tìm được ở miền núi xa.
Khúc "Tử chi" ngừng ca, ẩn giả,
Văn nhân đều cùng tả "Sông trong".
Nhà nông, mưa nắng ngóng trông,
Chim bồ cốc giục hãy trồng kịp xuân!
Sông Kỳ, hỡi đoàn quân, trở lại,
Nơi phương nam bao gái mong chồng.
Sông Ngân ai vít xuống cùng,
Rửa sạch vũ khí thôi dùng từ đây.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Chiếm Sơn Đông trung hưng đất nước
Thư đêm ngày cũng được gửi ngay
Giặc Hồ vận mạng đã bầy
Dùng thuyền nhỏ vượt sông ngay tức thì
Đã lấy lại trong ngày thành Nghiệp
Tướng chỉ huy bắc lập công to
Ngựa “hãn huyết” trong kinh đô
Quân Hồi Hột được đức vua đãi đằng
Mừng uy vua yên vùng Hải Đại
Không Đồng còn nhớ mãi vua qua
Ba năm nghe sáo trăng tà
Quân đi như gió là là cỏ cây
Thành Vương công lớn coi còn nhỏ
Quách tướng quân hiếm có xưa nay
Quan tư gương sáng nêu bày
Thượng thư khí phách cao bay ngút trời
Vài hào kiệt thức thời xuất hiện
Trật tự đà chỉnh đốn cứu đời
Về đông đầy cá lư tươi
Xuôi nam cảm giác chim trời an cư
Quần thần chầu xuân như trở lại
Điện uy nghi trong khói trầm hương
Suốt đêm xe hạc đi đường
Gà vừa gáy sáng bên giường vấn an
Nương rồng dựa phượng vang quyền thế
Ai cũng thành vương tể cả rồi
Các ngươi dựa dẫm mà thôi
Gặp thời đừng có cậy oai hiếp người
Ở Trung Nguyên dùng Tiêu thừa tướng
Mạc phủ lưu dưới trướng Từ Phòng
Xuất thân vùng biển ông Trương
Mình cao chín thước, râu đồng bạc phơ
Lúc đầu quân gặp cơ thuận tiện
Giúp nước dùng quyền biến rõ tài
Áo xanh ngựa trắng cao bay
Sau Chu là Hán hiện nay thái bình
Các nước nhỏ cúi mình triều cống
Mọi điềm lành mau chóng hiện ra
Nước nào vòng ngọc mang qua?
Lại nghe bình bạc tìm ra non ngoài
Ẩn sĩ hết ca bài “Tử khúc”
Các thi nhân ngâm khúc “Hà thanh”
Nhà nông trông ngóng ngày lành
Chim bố cốc giục gieo nhanh vụ mùa
Trai trẻ về đừng chần chờ nữa
Chinh phụ chờ chồng đã buồn nhiều
Kéo sông trời, sức mạnh siêu
Rửa toàn vũ khí, triệt tiêu không dùng.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Các tướng trung hưng thu Sơn Đông.
Thắng trận ngày đêm báo tin mừng.
Sông rộng thuyền nan qua chẳng khó,
Vận mệnh giặc Hồ tựa mảy lông.
Tướng tài phương bắc lập đại công.
Kinh đô rặt cưỡi ngựa huyết hãn,
Lính Hồi Ngột chiếm Bồ Đào cung.
Mừng uy vua dẹp vùng Hải Đại,
Thường nhớ xe qua núi Không Đồng.
Ba năm nghe khúc “Trăng quan ải”,
Muôn nước đoàn quân cây cỏ rung.
Thành Vương công lớn lòng khiêm tốn,
Quách Tướng mưu sâu xưa nay hiếm.
Tư Đồ trong sáng tựa gương treo,
Thượng Thư khí phách trời thu cao.
Hào kiệt mấy người ra giúp nước,
Sắp đặt cứu đời yên trời đất.
Chẳng chạy về đông nhớ cá vược,
Chim về tổ ấm, kẻ xuôi nam.
Rạng nét thanh xuân, rỡ áo xiêm,
Hoa khói mơ màng, điện tôn nghiêm.
Xe loan, xe hạc rộn ngày đêm.
Gà gáy vào chầu nơi kim bệ,
Vin rồng, náu phượng ai quyền thế.
Thiên hạ đều là bậc hầu vương.
Các ngươi nên biết nhờ thánh quân,
Vốn kẻ gắp thời đừng khoe sức!
Tiêu Hà thừa tướng đất Quan Trung,
Dưới trướng dùng mưu kế Trương Lương.
Ông Trương vốn người nơi sông nước,
Râu tóc pha sương, cao chín thước.
Đươc vua mời đến hội gió mây,
Chống đỡ thế nguy, mưu giỏi thay.
Áo xanh ngựa trắng giặc chạy đi,
Sau Hán, nay Chu đời hưng thịnh.
Đất trời một tấc cũng đem cống,
Điềm lành vật báu đem dâng lên.
Lại có xứ nào hiến ngọc trắng,
Lại nơi núi nọ dâng “ngân úng”
Kẻ ẩn không hát “Tử chi ca”
Văn nhân không làm “Hà thanh tụng”.
Nhà nông chốn chốn tiếc nắng mưa,
Khắp nơi chim giục sớm cày bừa.
Chiến sĩ sông Kỳ mau trở lai!
Thiếu phụ thành nam chờ trông mãi,
Sao có tráng sĩ kéo sông Ngân,
Rửa sạch giáo gươm quyết chẳng dùng.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời