耳聾

生年鶡冠子,
歎世鹿皮翁。
眼復幾時暗,
耳從前月聾。
猿鳴秋淚缺,
雀噪晚愁空。
黃落驚山樹,
呼兒問朔風。

 

Nhĩ lung

Sinh niên hạt quan tử,
Thán thế lộc bì ông.
Nhãn phục kỷ thì ám,
Nhĩ tòng tiền nguyệt lung.
Viên minh thu lệ khuyết,
Tước táo vãn sầu không.
Hoàng lạc kinh sơn thụ,
Hô nhi vấn sóc phong.

 

Dịch nghĩa

Khi sống thì là chàng quan võ,
Nhưng khi than đời thì là người đội mũ da nai.
Mắt lúc nào thì mù,
Tai thì tháng trước điếc rồi.
Vượn hót, lệ mùa thu đã cạn,
Chim kêu chỉ rặt buổi chiều buồn.
Thấy vàng rơi mà ngại cho cây rừng,
Gọi trẻ hỏi có phải gió bắc không?


(Năm 767)

Mùa thu năm 767, tai trái của tác giả bắt đầu bị điếc.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nhượng Tống

Việc đời càng biết càng thương
Suối rừng bao kẻ tìm phuơng trốn đời
Bao giờ mắt mới được đui?
Tai thì tháng trước điếc rồi, sướng không
Sẻ kêu chiều chẳng bận lòng
Trời thu, vượn hót lệ hồng chẳng sa
Gió gì? Gọi trẻ hỏi qua
Giật mình vàng rụng trông ra cây rừng


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Sống tuổi làm quan võ,
Than đời một cụ già.
Tháng trước tai đã điếc,
Chừng nào mắt mới loà.
Sẻ kêu sầu chẳng vướng.
Vượn hú lệ không sa.
Vàng rơi thương cây núi,
Hỏi trẻ "gió bắc à".

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Lúc trẻ đội mũ lông chim hạt
Già chán đời thành bác da nai
Mắt mờ, đôi lúc tối thui
Một tai bị điếc tháng rồi còn đâu
Nghe vượn hú lệ sầu đã cạn
Sẻ chiều về chợt ngán, buồn suông
Lá rơi e ngại cây rừng
Phải chăng gió bấc? Ngập ngừng hỏi con.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời