Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 27/02/2015 11:16
相國生南紀,
金璞無留礦。
仙鶴下人間,
獨立霜毛整。
矯然江海思,
復與雲路永。
寂寞想玉階,
未遑等箕潁。
上君白玉堂,
倚君金華省。
竭力歲崢嶸,
天池日蛙黽。
退食吟大庭,
何心記榛梗。
骨驚畏曩哲,
鬚變負人境。
雖蒙換蟬冠,
右地恧多幸。
敢忘二疏歸,
痛迫蘇耽井。
金紫映暮年,
荊州謝所領。
庾公興不淺,
黃霸鎮每靜。
賓客引調同,
諷詠在務屛。
詩地能有餘,
篇終語清省。
一陽發陰管,
淑氣含公鼎。
乃知君子心,
用才文章境。
散帙起翠螭,
倚薄巫廬並。
綺麗玄暉擁,
箋誄任昉騁。
自我一家則,
未缺隻字警。
千秋滄海南,
名系朱鳥影。
歸歟守故林,
戀闕嘗延頸。
波濤良史筆,
蕪絕大庾嶺。
向時禮數隔,
制作難上請。
再讀徐孺碑,
猶思理煙艇。
Tướng quốc sinh nam kỷ,
Kim phác vô lưu quáng.
Tiên hạc há nhân gian,
Độc lập sương mao chỉnh.
Kiểu nhiên giang hải tư,
Phục dữ vân lộ vĩnh.
Tịch mịch tưởng ngọc giai,
Vị hoàng đẳng Ky Dĩnh.
Thượng quân bạch ngọc đường,
Ỷ quân Kim Hoa tỉnh.
Kiệt lực tuế tranh vanh,
Thiên trì nhật oa mãnh.
Thoái thực ngâm đại đình,
Hà tâm ký trăn ngạnh.
Cốt kinh uý nẵng triết,
Tu biến phụ nhân cảnh.
Tuy mông hoán thiền quan,
Hữu địa nục đa hạnh.
Cảm vong nhị sớ quy,
Thống bách Tô Đam tỉnh.
Kim tử ánh mộ niên,
Kinh Châu tạ sở lĩnh.
Dữu công hứng bất thiển,
Hoàng Bá trấn mỗi tĩnh.
Tân khách dẫn điều đồng,
Phúng vịnh tại vụ bính.
Thi địa năng hữu dư,
Thiên chung ngữ thanh tỉnh.
Nhất dương phát âm quản,
Thục khí hàm công đỉnh.
Nãi tri quân tử tâm,
Dụng tài văn chương cảnh.
Tản trật khởi thuý ly,
Ỷ bạc Vu, Lư tịnh.
Khỉ lệ Huyền Huy ung,
Tiên lỗi Nhiệm Phưởng sính.
Tự ngã nhất gia tắc,
Vị khuyết chích tự cảnh.
Thiên thu thương hải nam,
Danh hệ chu điểu ảnh.
Quy dư thủ cố lâm,
Luyến khuyết thường diên cảnh.
Ba đào lương sử bút,
Vu tuyệt Đại Dữu lĩnh.
Hướng thời lễ sổ cách,
Chế tác nan thượng thỉnh.
Tái độc Từ Nhụ bi,
Do tư lý yên đĩnh.
Ngài tướng quốc sinh ở miền nam,
Đúng là vàng ròng không pha quặng.
Hạc tiên sa xuống cõi người,
Đứng riêng bộ lông trắng chau chuốt.
Kiên trì với ý muốn ở ẩn,
Mà rồi cùng với đường mây gắn bó mãi.
Âm thầm nghĩ đến thềm ngọc,
Ám ảnh vì những người nơi núi Ky sông Dĩnh.
Chầu vua nơi viện hàn lâm,
Cạnh vua nơi điện Kim Hoa.
Cố hết sức trong những năm khốn đốn,
Ao trên đỉnh núi cả ngày ềnh oang.
Ăn cơm nhà mà ca ngợi thời thái bình thịnh trị,
Còn có lòng nào nữa mà để ý đến chuyện vặt.
Sợ những bậc hiền triết thuở trước đến thấu xương.
Gánh vác việc đời đến phờ râu.
Tuy có ý bỏ chức vị cao,
Miền tây thấy ngượng vì may mắn nhiều.
Dám quên hai tờ tâu xin từ quan,
Đau đớn thôi thúc là chuyện cái giếng Tô Đam.
Vào cuối đời mà loé sáng mầu vàng đỏ,
Cúi xin nhận lĩnh vùng Kinh Châu.
Nguồn hứng không nông cạn của Dữu Tín,
Được yên lành duy chỉ có trấn dưới quyền Hoàng Bá.
Các người khách trong nhà cùng nhạo báng,
Ngâm nga khi cùng làm việc.
Tung hoành trong thi ca,
Cuối bài có lời cảnh báo rất minh bạch.
Ống rè vang tiếng bổng,
Khí thiêng nơi đỉnh công.
Mới hay lòng của người quân tử,
Dùng cái tài của mình trong lĩnh vực văn chương.
Đọc sách là để ra làm quan phụng sự nhà vua,
Hết vùng kẽm Vu rồi đến núi Lư.
Vẻ đẹp của văn ông lấn áp cả văn của Tạ Diễu,
Tờ văn phúng điếu cũng trôi chảy nhu của Nhiệm Phưởng.
Tự ý thức được về phép tắc của gia đình,
Không bỏ xót một chữ “đề phòng”.
Ngàn đời biển xanh nơi phía nam,
Danh ràng buộc với hình ảnh chim đỏ.
Quay trở về với chốn rừng cũ rồi,
Mà cổ vẫn cứ ngóng về cửa khuyết.
Ngòi bút của nhà chép sử chân chính như ngọn sóng lớn,
Cao vút trời như đỉnh Đại Dữu.
Thời trước lễ nghi ngăn cách,
Theo quy định khó mà đưa ý kiến riêng.
Đọc lại bài bia Từ Nhụ,
Còn suy nghĩ nhiều về con thuyền trong cõi mây khói.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 27/02/2015 11:16
Tướng quốc sinh miền nam,
Vàng ròng không lẫn quặng.
Hạc tiên xuống với người,
Lông bạc, dáng đứng thẳng.
Ý sông biển sẵn sàng,
Mà đường mây lại vững.
Âm thầm mơ thềm vua,
Ky, Dĩnh cứ bãng lãng.
Gần vua điện Kim hoa,
Yết vua Nhà Ngọc Trắng.
Kiệt sức năm chênh vênh,
Ao trời ngày oang oáng.
Cơm nhà lo việc công,
Lòng nào chấp chuyện rỗng.
Xương đau, sợ hiền xưa,
Râu bạc, phụ cảnh sống.
Tuy mong trả mũ lui,
Vùng tây thẹn may hưởng.
Dám quên hai sớ dâng,
Bứt rứt Tô Đam giếng.
Vàng tía rộ cuối đời,
Kinh Châu xin phụng mạng.
Dữu công hứng rất sâu,
Hoàng Bá trấn yên ắng.
Ngâm nga lúc việc chung,
Khách khứa cùng nhạo báng.
Nền thơ thường có thừa,
Cuối chương, lời thật sảng.
Khí thiêng nơi đỉnh công,
Ống rè vang tiếng bổng.
Mới hay lòng kẻ hiền,
Chốn văn chương tận dụng.
Đọc sách để giúp vua,
Vu, Lư đều điêu đứng.
Đẹp đẽ sát Huyền Huy,
Văn điếu gần Nhiệm Phưởng.
Tự theo phép một nhà,
Chưa hề phút chểnh mảng.
Ngàn thu, nam biển xanh,
Chim đỏ, tên theo bóng.
Về với rừng xưa ư,
Thương vua cổ cứ ngẩng.
Sử gia bút sóng cao,
Đỉnh Đại Dữu hoang vắng.
Lề lối thuở xưa ngăn,
Nguyên tắc ý khó gióng.
Bia Từ Nhụ lại xem,
Còn mơ thuyền trên sóng.