Trang trong tổng số 10 trang (98 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối
Gửi bởi Vodanhthi ngày 21/06/2014 22:44
Tình cờ đi ngang chỗ này, thấy câu hỏi của bạn tận cùng bằng hai chữ "thưa huynh". Mặc dù không biết là bạn hỏi huynh nào, nhưng trong khi huynh ấy chưa đọc được câu hỏi, tôi xin phép có giải đáp sơ sài:
Bồ-tát man là một trong những thể điệu của từ phẩm (một trong những dạng từ phổ), giống như ở Việt Nam có Lý con sáo hay Lý cây bông vậy. Bồ-tát man không phải là tựa đề của một bài thơ.
Gửi bởi Vodanhthi ngày 06/02/2014 10:20
Rất vui cảnh đẹp mới từng ngày
Thân thiết khách văn tình vãn lai
Giao tiếp văn nhân càng hiểu rộng
Gặp nhiều người thiện sống càng hay
Phan ông Hương Tích tu đắc thiện
Bố thí Kiếm Hồ bỏ tận tay
Thêm được Ngô ông nơi đất lạ
Kết chòm nhân đức kể từ nay.
Gửi bởi Vodanhthi ngày 29/01/2014 21:14
Con ếch
Nhảy xuống ao tù.
Tiếng nước té.
Gửi bởi Vodanhthi ngày 04/11/2013 21:21
Tác giả Phạm Thảo Nguyên có bài viết đề cập cùng lúc đến hai bài kệ của thiền sư Không Lộ: Ngôn hoài và Ngư nhàn.
Mời các thi hữu tham khảo tại: http://www.thivien.net/vi...ID=atM7cnjB0lPZL9-NUGxbqA
Gửi bởi Vodanhthi ngày 04/11/2013 21:17
Hai bài kệ của Không Lộ
Gửi bởi Vodanhthi ngày 01/11/2013 21:21
Xe hướng về biên cương
Qua thuộc quốc Cự Duyên
Cỏ bồng dời đất Hán
Chim nhạn về trời Hồ
Khói buồn cao đại mạc
Ráng chiều phơi trường hà
Tiêu quan gặp binh mã
Bình định đất Yến Nhiên.
Gửi bởi Vodanhthi ngày 17/09/2012 15:27
Mù sương phi cảng não nề
Thôi anh ở lại buồn về em mang
Tiễn anh một chén rượu tàn
Một bàn tay nắm
Một hàng lệ mau...
(Trích thơ Cao Thị Vạn Giã)
Gửi bởi Vodanhthi ngày 24/11/2011 19:16
Bài thơ vận nước có thể giải mã một cách đích xác và cụ thể những yếu tố gì có thể làm cho vận nước được dài lâu. Đó là sự đoàn kết của toàn dân và phẩm chất tài đức của người lãnh đạo. Tổ tiên ta hơn ngàn năm trước đã dùng hình ảnh cuộn mây (đằng lạc). Từng con người có thể yếu yếu ớt như từng chiếc đũa, từng sợi mây, nhưng biết kết hợp lại thì sẽ trở thành một sức mạnh vô địch, không gì có thể phá vỡ được.
Nếu kết hợp với bài thơ này với bài Thần Nước Nam Sông Núi, có một vị thế hết sức quan trọng không chỉ trong lịch sử văn học mà cả trong lịch sử tư tưởng chính trị và Phật giáo Việt Nam. Nó đã thành công khi đề xuất được hệ thống tư tưởng chính trị hoàn chỉnh để định hướng cho sự phát triển của một hệ thống chính quyền làm chủ đất nước vừa thoả mãn yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia vừa đáp ứng nguyện vọng của người dân. Từ đó, nó giúp ta hiểu tổ tiên ta đã xây dựng chính quyền trên căn bản hệ thống tư tưởng chính trị nào, nhất là khi ta quan niệm lịch sử như một vận động có ý thức của con người.
Trong ba vị Thiền sư đã tham gia trực tiếp vào cuộc chiến tranh năm 981 là Thiền sư Khuông Việt, Vạn Hạnh và Pháp Thuận, thì hình như Thiền sư Pháp Thuận là người được vua Lê Đại Hành tín nhiệm và kính trọng nhiều nhất. Sự tình này ta có thể thấy qua việc vua Lê Đại Hành đã đem vận nước ngắn dài ra để trưng cầu ý kiến của Thiền sư Pháp Thuận. Phải nói rằng Thiền sư Pháp Thuận đã được tín nhiệm tới một mức độ nào đó, thì Lê Hoàn mới dám đem vấn đề ấy ra để hỏi. Khi nói đến vận nước, thực tế là nói đến vận mạng của một triều đại. Vua Lê Đại Hành đã đem vận mạng của triều đại mình để hỏi, điều này cũng có nghĩa ông hoàn toàn tin tưởng Thiền sư Pháp Thuận.
Sự thật, khi đặt câu hỏi như thế, vua Lê Đại Hành đã nhìn Thiền sư Pháp Thuận không chỉ là một cố vấn thân tín, mà còn là một cố vấn có đủ khả năng phân tích để có thể thấy đâu là sở trường, đâu là sở đoản của một triều đại. Có thể, vua Lê Đại Hành đã đặt câu hỏi ấy vào một thời điểm mà triều đại nhà Lê do Lê Hoàn thiết lập đang đứng trước những khó khăn thách thức, có nguy cơ có thể bị sụp đổ. Thời điểm đầy nguy cơ ấy không đâu khác hơn là giai đoạn lúc Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết vào tháng 10 năm Kỷ Mão (979) và khi Hầu Nhân Bảo tiến quân vào nước ta vào mùa Xuân tháng 3 năm Tân Tỵ (981).
Đây là giai đoạn của thù trong giặc ngoài, mà nếu không có sự ủng hộ một lòng một dạ của dân thì Lê Hoàn đã không bao giờ thành công, đè bẹp và tiêu diệt đám thù trong giặc ngoài ấy. Quả vậy, bên trong đám Đinh Điền, Nguyễn Bặc do quyền lợi cá nhân và dòng họ, đã không thấy nguy cơ xâm lược của kẻ thù đối với đất nước, nên đã kiên quyết chống lại Lê Hoàn. Còn bên ngoài, triều đình nhà Tống đang ráo riết đi sâu vào những khó khăn nội bộ của ta và tiến hành cuộc chiến tranh xâm lăng Đại Cồ Việt. Trong một tình huống như thế, nếu không có sự đoàn kết của toàn dân, vua Lê Đại Hành đã không thể chiến thắng được thù trong giặc ngoài như vừa kể.
Chính trong tình thế có nhiều nguy cơ thách thức như vậy, mà vua Lê Đại Hành đã hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước dài hay ngắn. Và như thế câu trả lời của Thiền sư Pháp Thuận cũng ở vào thời điểm ấy. Để nhấn mạnh đến vị thế xung yếu của sự đoàn kết, Thiền sư Pháp Thuận đã dùng hình ảnh vận nước như một bó mây cuốn lại với nhau:
Vận nước như mây cuốnNói vậy tức cũng xác định bài thơ Vận Nước này ra đời vào trong khoảng những năm 979 – 981, khi đất nước đang trải qua những giờ phút nghiêm trọng. Nguy cơ đánh mất chủ quyền quốc gia ngày đêm vẫn rình rập. Chính vào thời điểm này, những người lãnh đạo đất nước như Lê Hoàn với trực cảm bén nhạy của nhà chính trị thiên tài đã thấy vấn đề và tìm cách giải quyết. Câu trả lời của Thiền sư Pháp Thuận cũng thể hiện một trực cảm chính trị sắc bén không kém. Ông đã ý thức rất rõ mọi quyền lực phải từ dân mà ra và vận nước cũng thế. Vận nước ngắn dài nằm ở trong tay người dân. Người lãnh đạo biết nắm lấy dân, biết đoàn kết với dân thì vận mệnh của triều đại mình sẽ lâu dài. Ngược lại, thì sẽ nhào đổ một cách nhanh chóng.
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh
Vô vi cư điện cácKhi nói đến khái niệm vô vi, người ta thường nghĩ ngay đến phạm trù vô vi của triết học Lão Trang. Nhưng ở đây thực sự không phải như thế. Về phía Phật giáo, vô vi là một phạm trù lớn và thường được coi là dịch từ chữ asamskrta của tiếng Phạn. Nội dung của vô vi theo hướng này thường được quy định trong giới hạn của bản thể luận và nhận thức luận. Song ảnh hưởng của kinh Lục Độ Tập đối với Phật giáo nước ta lúc ấy, ta thấy truyện 81 của kinh này có một định nghĩa của vô vi như sau: “Cẩn thận, không kiêu ngạo, là hạnh của học sĩ, bỏ lòng dơ ân ái, không lấm bụi bặm của sáu tình, không để các ái nhỏ như tóc tơ che dấu trong lòng mình thì các niệm lắng diệt, đó là vô vi”.
Xứ xứ tức đao binh.
Gửi bởi Vodanhthi ngày 29/09/2011 21:45
Năm tháng trôi nay đã sáu mươi,
Trải bao gió bụi một đời người.
Một danh nho sĩ đi về mãi,
Nửa trật Hàn lâm thách thức hoài.
Sợ vốn văn chương thành phí sức,
Khổ vì biến cố vẫn còn dai.
Rượu xuân gặp bạn vui cùng lứa,
Tiệc ở Trúc Hồ mấy chén say.
Gửi bởi Vodanhthi ngày 07/07/2011 07:55
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vodanhthi vào 07/07/2011 07:56
Một hôm, sư phụ của Phật Quả Viên Ngộ (Khắc Cần thiền sư) là Pháp Diễn tiếp khách.
Khách vốn là quan đề hình đã treo ấn từ kinh trở về. Khách hỏi về đạo lý Thiền, Pháp Diễn nói: “Quan đề hình có biết một bài thơ tiểu diễm mà bọn Thiền chúng tôi nhớ mài mại hai câu cuối không? Đó là:
Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự
Chỉ yếu Đàn lang nhận đắc thanh.
頻呼小玉元無事
秖要檀郎認得聲
Cô nàng gọi mãi nhưng vô ích
Chỉ thằng tốt mã nghe ra thôi.
Nghe đọc xong, viên quan trẻ nói: “Vâng, vâng thưa đại sư”. Nhưng sư bảo ông đừng có nghe theo dễ dàng như thế.
Từ ngoài trở vào, vừa nghe cuộc đàm đạo này Phật Quả hỏi: “Nghe nói hoà thượng đọc bài thơ tiểu diễm cho quan đề hình lúc tôi ra ngoài. Đề hình có hiểu không?”
Pháp Diễn đáp: “Y nhận ra tiếng.”
Phật Quả nói: “Câu thơ viết Chỉ thằng tốt mã nghe ra thôi, nếu như đề hình nghe ra tiếng y lầm lẫn ở chỗ nào?”
Không trả lời thẳng câu hỏi, Pháp Diễn bảo: “Ý Tổ sư Tây lại là gì? Cây bá trước sân. Thế là thế nào?” Tức thì tầm mắt Phật Quả mở ra mà thấy đạo lý của Thiền. Sư chuồn ra khỏi thất, chợt thấy một con gà đang xốc cánh mà gáy, sư nói: “Đấy há không phải là tiếng?” Rồi sư làm bài thơ sau đây:
Ngỗng vàng màn gấm hết hương rồi
Say giữa đàn ca đỡ dậy thôi
Một đoạn phong tình qua tuổi trẻ
Dành riêng người đẹp nhận ra ngươi.
Trang trong tổng số 10 trang (98 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối