Trang trong tổng số 11 trang (109 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Đề Mị Ê từ (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Chẳng phải mày râu báo quốc thù,
So hàng son phấn, thẹn ai người?
Trăm năm tâm sự mong trời tỏ,
Một chữ hồn trinh xuống nước chơi.
Sông nước thở than trôi oán biệt,
Sắc hoa mờ ảo tủi tàn phai,
Khói hương miếu cổ vương đầu bến,
Lưu được tiếng thơm đến vạn đời.

Ảnh đại diện

Điếu Đặng Tất (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Diệt thù cứu nước, thề không lơi,
Vung kiếm những toan kéo đất trời.
Nỡ để non sông chìm đắm mãi?
Chết rồi chính khí vẫn còn ngời.
Lòng trung, Mộc Thạnh sao không thẹn?
Việc lớn, vua Trần chẳng được rồi.
Khách đến Bồ Cô tìm dấu cũ,
Bên sông thảm đạm nắng chiều rồi.

Ảnh đại diện

Vịnh Lý Thiên Vương (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Trời giáng cõi Nam, ai sánh được?
Thân cao một trượng, hàng ôm liền.
Oai trùm sông núi kình ngự lặng,
Mạnh kiếp Hung Nô bờ cõi yên.
Chức tước tặng ban coi nhẹ bỗng,
Tượng đồng chẳng đúc vẫn linh thiêng.
Muôn đời mến phục coi người Việt,
Bên miếu đầu sông dấu vẫn truyền.

Ảnh đại diện

Vịnh Đổng Thiên Vương (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Rồng náu ba năm, đời chửa tường,
Vươn vai một sớm sự phi thường.
Roi vàng phá giặc oai lừng lẫy,
Ngựa sắt về trời dấu lạ lùng.
Trời Việt non sông còn vĩ tích,
Cõi Ân cây cỏ khiếp oai phong.
Bên đền nghe vẳng ngàn thông réo,
Ngỡ khúc khải hoàn vó ngựa tung.

Ảnh đại diện

Đề Tống Trân mộ (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Anh hào tám tuổi đã lừng danh,
Được gió tung mây thoả chí bằng.
Cờ sứ giương cao đường vạn dặm,
Đối văn sắc nhọn chữ ba ngàn.
Giãi lòng hiếu nghĩa kinh muông thú,
Xét việc tinh tường thoả án hình.
Ai đó ngàn năm ma chín suối,
Vạch cây tìm viếng bậc anh tài.

Ảnh đại diện

Vịnh Trần Hưng Đạo vương (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Dòng dõi tiên vương, trang kiệt hào,
Quên mình vì nước mặc gian lao.
Ôm hoài chí lớn non sông lặng,
Quét sạch quân thù mưu lược cao.
Đất Việt công lao ghi sử sách,
Biển Đông uy vũ lặng ba đào.
Phần Dương phúc lộc làm sao sánh?
Giặc Thát nhớ đời tài lược thao.

Ảnh đại diện

Vịnh Trương Hán Siêu (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Kinh luân học thuật thảy cao sâu,
Gặp hội rồng mây, sớm đỗ cao.
Đất nước điều hoà tài tướng phủ,
Từ chương rực rỡ sáng Khuê Lâu.
Núi Nam cờ đỏ người người trọng,
Cõi Bắc thơ hay tiếng tiếng hào.
Học lối Đào Chu khi bóng xế,
Non xanh nước biếc thú tiêu dao.

Ảnh đại diện

Vịnh Chu Văn An (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Tiết tháo, can trường, dám đảm đương,
Một tay muốn kéo lại vầng dương.
Quỷ ma khiếp sợ tờ xin trảm,
Sấm sét không sờn dạ phẫn trung.
Khí mạnh rạng ngời cùng đất nước,
Tài cao còn mãi với non sông.
Suối rừng ước cũ nay đâu thấy?
Văn Miếu mãi còn lưu tiếng thơm.

Ảnh đại diện

Vịnh Tô Hiến Thành (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Trụ cột triều đình dạ sắt gang,
Đảm đương nhiếp chính mặc gian nan.
Tiên hoàng thác mệnh phò vua nhỏ,
Thái hậu uổng công ép tướng khanh.
Muôn thuở công lao ghi sử sách,
Trăm năm tôn miếu vững non Bàn.
Tặng tranh chỉ chuốc thêm tai hoạ,
Ai vẽ lòng son, có được chăng?

Ảnh đại diện

Vịnh Mạc trạng nguyên (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Thời trẻ tài danh, ai sánh cùng?
Chân nho lừng lẫy khắp miền đông.
Ngàn tầng sóng đỏ, danh đà vượt,
Muôn dặm đường trường, sứ ruổi rong.
Vịnh quạt, tứ thơ hơn sứ bạn,
Xé tranh, sẻ trúc luận văn chương.
Chuyện xưa còn đó dù to nhỏ,
Tưởng nhớ hiền nhân, mượn mấy dòng.

Trang trong tổng số 11 trang (109 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: