Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Hán
Đăng bởi tôn tiền tử vào 27/04/2020 07:58
夙蘊經綸學術多,
逢時早已擢危科。
詞林唾玉奎樓煥,
相府調梅鼎鼐和。
望重南山標赤幟,
名高北闕詠皇華。
晚年最愛陶朱術,
碧水青山逸興奢。
Túc uẩn kinh luân học thuật đa,
Phùng thì tảo dĩ trạc nguy khoa.
Từ lâm thoá ngọc Khuê Lâu hoán,
Tướng phủ điều mai đỉnh nãi hoà.
Vọng trọng Nam sơn tiêu xích xí,
Danh cao Bắc khuyết vịnh “Hoàng hoa”.
Vãn niên tối ái Đào Chu thuật,
Bích thuỷ thanh sơn dật hứng xa.
Tài kinh luân sâu sắc lại học rộng biết nhiều,
Gặp thời cho nên ông đã sớm đỗ cao.
Văn chương nhả ngọc phun châu như sao Khuê, Lâu rực sáng,
Làm việc ở tướng phủ, khéo điều hoà làm cho đất nước thuận hoà.
Nêu cao ngọn cờ núi Nam, được mọi người trọng vọng,
Ngâm thơ “Hoàng hoa” ở triều đình phương Bắc, tên ông lẫy lừng.
Cuối đời ông rất thích học lối Đào Chu Công,
Nhiều thú ẩn dật nơi non xanh nước biếc.
Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 26/04/2020 07:58
Kinh luân học thuật thảy cao sâu,
Gặp hội rồng mây, sớm đỗ cao.
Đất nước điều hoà tài tướng phủ,
Từ chương rực rỡ sáng Khuê Lâu.
Núi Nam cờ đỏ người người trọng,
Cõi Bắc thơ hay tiếng tiếng hào.
Học lối Đào Chu khi bóng xế,
Non xanh nước biếc thú tiêu dao.
Gửi bởi Trương Việt Linh ngày 02/11/2021 11:08
Kinh luân sâu rộng, bậc tài ba,
Sớm hội rồng mây đổ đại khoa.
Châu ngọc Khuê Lâu văn rực rỡ,
Đảm đương tướng phủ việc điều hoà.
Núi Nam cờ đỏ đời coi trọng,
Đất Bắc thơ hay tiếng dội xa.
Theo bước Đào Công khi bóng xế,
Non xanh nước biếc thú ngâm nga.