Trang trong tổng số 3 trang (28 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3]
Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 07/12/2007 09:48
Gần đây do một sự tình cờ chúng tôi phát hiện được một bài viết có nhan đề Tỳ bà hành bạt chép chung trong cuốn Nam phong giải trào ở Thư viện Quốc gia (R1674). Bài dài khoảng 450 chữ. Sau lời bạt là nguyên văn chữ Hán bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và lời dịch ra quốc âm. Đáng chú ý là bài viết có ghi cụ thể dòng lạc khoản “Minh Mệnh thập nhị niên ngô nguyệt trung hoán. (Hà ái) Nhâm Ngọ Hội nguyên Tiến sĩ Hình bộ Thị lang sung biện Nội các sự vụ Phương Trạch Hà Tốn Phủ cẩn bạt”. Hà Tốn Phủ chính là Hà Tông Quyền bạn đồng liêu với dịch giả bài Tỳ bà hành mà ở đoạn đầu lời bạt ông đã giới thiệu dịch giả là “Cựu Bộ trưởng Xuân Khanh” (Tên hiệu Phan Huy Thực).
Hà Tông Quyền (1789-1893) quê huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, đỗ Hội nguyên năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), lúc nhỏ đi học nổi tiếng thông minh, làm quan đến chức Lại bộ Tham tri, Sung đại thần Viện cơ luật, khi mất được truy tặng Thượng thư bộ Lại. Ông là một nhà khoa bảng nổi tiếng văn chương, được các sĩ phu đương thời ca ngợi. Ngoài thơ chữ Hán ông còn để lại 30 bài vịnh Kiều bằng chữ Nôm hưởng ứng cuộc thi vịnh Kiều do Minh Mệnh đề xướng năm 1830. Ông được Minh Mệnh tin dùng và thường xuyên được vào bái kiến nhà vua.
Trong lời bạt ông ca ngợi và đánh giá cao bài dịch Tỳ bà hành của họ Phan, đồng thời ông cũng nêu lên quan điểm về dịch thuật của mình là không nên quá chú trọng về mặt kỹ xảo mà làm sai lạc nội dung của nguyên tác. Qua lời bạt chúng ta còn được biết thêm về thời điểm ra đời của bản dịch (trước năm 1831).
Thực ra từ trước tới nay đã có nhiều người đề cập đến dịch giả bài Tỳ bà hành nổi tiếng của Bạch Cư Dị. Ngay từ năm 1926, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến cũng đã thông báo trên tạp chí Nam Phong dịch giả Tỳ bà hành là Phan Huy Thực. Tiếp đó Hoàng Xuân Hãn, Hoàng Ly, Trương Linh Tử và sau này Phạm Văn Diêu, Tạ Ngọc Diễn, Hoàng Thị Ngọ cũng khẳng định như vậy. Khi viết về dòng họ Phan Huy ở Sài Sơn, GS. Phan Huy Lê cho biết gia phả họ Phan ở Thạch Châu và Sài Sơn đều chép thống nhất người dịch Tỳ bà hành là Phan Huy Thực. Chúng tôi cũng đã được đọc cuốn Phan tộc công phả hiện đang lưu giữ ở Thư viện Quốc gia (A2963) do Phan Huy Dũng - cháu nội Phan Huy Thực biên tập, trong đó có ghi tóm tắt tiểu sử 6 người con của Phan Huy ích. Trong đoạn nói về Phan Huy Thực, gia phả có ghi rõ các trước tác của ông như: Hoa thiều tạp vịnh, Tỳ bà hành diễn âm khúc, Nhân ảnh vấn đáp... Riêng đối với Phan Huy Vịnh thì gia phả không hề nói đến việc ông dịch Tỳ bà hành.
Như vậy gia phả họ Phan Huy là nguồn tư liệu duy nhất đáng tin cậy để xác định người dịch Tỳ bà hành và đồng thời cũng để đính chính những ngộ nhận lâu nay được gán ghép cho Phan Huy Vịnh. Sở dĩ có sự nhầm lẫn kéo dài có lẽ là do nguồn tư liệu của Trần Trung Viên trong cuốn Văn đàn bảo giám (soạn năm 1926) và nhất là cuốn Thi văn hợp tuyển dùng trong các trường trung học trước năm 1945 đã có ảnh hưởng sâu rộng trong giới học sinh lúc bấy giờ. Hai cuốn sách này gần đây đã được in lại vài ba lần nhưng vẫn không được đính chính, ngay cả bộ Từ điển văn học 2 tập in năm 1983-1984 cũng ghi Phan Huy Vịnh là người dịch Tỳ bà hành và Phan Huy Thực không có tên trong bộ Từ điển này (Cuốn Từ điển văn học bộ mới in năm 2004 đã có đính chính và bổ sung). Vì đã thành thói quen nên những cuốn sách mới gần đây như Thơ Đường trong nhà trường dùng cho học sinh Trung học, sinh viên và người yêu thích thơ Đường hoặc cuốn Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành của Hồ Sỹ Hiệp tập hợp những bài viết của nhiều nhà nghiên cứu và cuốn Thơ Bạch Cư Dị của NXB Hội Nhà văn vừa mới in xong trong quí IV-2006, vẫn để tên người dịch là Phan Huy Vịnh.
Để góp thêm một minh chứng cho vấn đề này, chúng tôi xin giới thiệu toàn văn lời bạt của Hà Tông Quyền cho bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực.
*
Lời bạt cho bài dịch Tỳ bà hành
Tỳ bà hành là tác phẩm của Bạch Lạc Thiên, các sĩ phu nước ta rất hâm mộ và đã diễn ra quốc âm, nhưng vì lời văn dài mà ngôn ngữ lại có phần mới nên đôi khi vẫn gặp những chỗ khó dịch và người dịch thường giữ lấy ý chính mà lại bỏ qua nhiều chi tiết trong nguyên bản. Khi dịch một bài văn nếu chỉ chú ý về mặt kỹ xảo (cầu công) mà không bám sát nội dung của nguyên tác thì có khác gì “gãi không đúng chỗ ngứa” và thử hỏi như vậy đã phải là người hiểu được thi sĩ họ Bạch chưa?
Khi tôi tiếp xúc với bài diễn âm của cựu Bộ trưởng Xuân Khanh họ Phan, tiên sinh bảo: Đó là bài tôi dịch ra đấy. Khi xem tôi thấy lời dịch bám sát nội dung, từng chữ từng câu răm rắp không sai mà âm vận thì lại vừa khoan thai vừa hùng tráng. Tôi đã ngâm nga, đọc đi đọc lại nhiều lần và rất lấy làm tâm đắc tưởng như đang được tiếp xúc với thi nhân cự phách đời Đường - người đang bị biếm trích ở đất Giang Châu trước cảnh thê lương của hơi thu và lau lách đìu hiu để tạo nên một thiên tuyệt bút, như đang được chứng kiến cảnh:
Bình bạc vỡ tuôn đầy mặt nướcTiên sinh đã diễn ra quốc âm trong lúc chưa gặp vận còn đang phải ẩn náu nơi sơn dã, chẳng khác cảnh sông Bồn và đã mượn chén rượu của người khác để giải nỗi sầu riêng, nếu không phải là người có thiên tư và chịu ảnh hưởng truyền thống học vấn của gia đình thì làm sao mà có được? Tiên sinh vốn sở trường về văn chương, thanh luật, nên âm vận trong câu dịch hài hoà toát lên cảnh phong lưu tao nhã, xứng đáng cùng với Lạc Thiên là những bậc hào hoa một thủa. Có những chỗ Lạc Thiên chưa diễn đạt hết thì tiên sinh lại dùng thanh âm mà giãi bày một cách tường tận.
Ngựa sắt dong sàn sạt tiếng đao (1)
Bến Tầm Dương canh khuya đưa kháchNguyễn Hiến Lê cũng có nhận xét như sau khi ông so sánh mấy câu trên đây với câu thơ của Bạch Cư Dị:
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ti
Mới đầu chúng ta thấy có cái gì khác nhau, mặc dù cũng bảy chữ và bản dịch rất sát nguyên bản: “Tầm Dương giang đầu dạ tống khách” không buồn, không vắng vẻ, không mông lung bằng “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách”. Tôi có cảm tưởng như vậy, có lẽ do chữ “dạ” dịch ra là “canh khuya”. “Dạ” (đêm) không gợi ý nhiều bằng “canh khuya”. Tài năng của họ Phan, tinh thần của tiếng Việt ở chỗ đó.
Đọc câu thơ thứ hai: “Phong diệp địch hoa thu sắt sắt” và câu dịch “Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu” thì câu của họ Phan làm tôi rung động hơn nhiều nhờ những chữ “lau lách đìu hiu”, cả chữ “quạnh”, chữ “hơi” nữa, vì tôi thấy “lau lách” buồn hơn “địch hoa”; “hơi thu, đìu hiu” gợi cảm hơn là “thu sắt sắt”.
Bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực là một tác phẩm toàn bích, và có lẽ cũng vì thế mà Tản Đà tài hoa cũng không dịch lại bài này và nhà thơ đã chọn một bài trường thiên nổi tiếng khác của Bạch Cư Dị là bài Trường hận ca và ông cũng đã thành công.
Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 01/12/2007 09:47
Liền năm áo chiến bụi đường pha,
Núi Thuý tìm lên để thưởng hoa.
Nước biếc non xanh nhìn chẳng đủ,
Ngựa về vó giục ánh trăng xa.
Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 29/11/2007 01:56
Bình vàng, rượu quý đáng tiền vạn,
Mâm ngọc, thức ngon giá mười ngàn.
Dằn chén, ném đũa, nuốt không được,
Vung gươm bốn phía, lòng mênh mang.
Băng đầy sông, khó vượt nổi Hoàng Hà,
Tuyết đầy trời, không đường lên núi Thái Hàng.
Rảnh rỗi buông câu bờ suối biếc,
Chợt cỡi thuyền mơ đến bên mặt trời.
Đường gian nan, đường gian nan!
Bao ngã rẽ, giờ đang ở đâu?
Đè sóng cưỡi gió, hẳn có lúc,
Giong thẳng buồm mây, vượt biển khơi!
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 28/11/2007 09:54
Nhà ai tiếng địch thoảng mong manh,
Theo gió xuân bay khắp Lạc thành.
Đêm nay nghe vẳng lời ly biệt,
Ai người không chạnh cố viên tình?
Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 28/11/2007 09:51
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Nguyên Thánh vào 29/11/2007 01:46
Nhà ai sáo ngọc tiếng mơ màng,
Theo gió xuân vào khắp Lạc Dương.
Văng vẳng đêm nay bài “Chiết liễu”,
Ai người không chạnh nỗi tha hương?
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 28/11/2007 09:34
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Nguyên Thánh vào 29/11/2007 01:42
Thấy chăng ai Hoàng Hà như thác dốc tự trời cao
Cuồn cuộn về khơi tráo ngược lại làm sao?
Thấy chăng nữa cao gương sáng thương cho tóc
Sáng mới tơ xanh chiều đà như tuyết!
Người đời ơi! Đắc chí cứ vui tràn
Chớ để ráo nậm vàng khuya trăng ngó!
Trời sinh ta “tài không để bỏ”
Nghìn vàng vung tay trắng xoè lại có!
Nướng dê, mổ trâu nhắm tuyệt vời!
Nâng chén mời nhau ba trăm chén một hơi
Này Sầm phu tử!
Người Đan Khâu ơi!
Đã uống thì luôn tay chén chớ rời
Cùng người ta hát khúc...
Nghiêng tai này bác lắng nghe tôi:
Thức ngọc mâm vàng, trống chiêng sao đủ quý?
Ai tỉnh thì ai say suốt đời thề tuý luý!
Thánh hiền xưa nay các cái thảy im lìm
Duy đấng làng say danh lừng để
Trần vương ban yến xưa Bình Lạc
Rượu đấu mười ngàn
Khách mê say khướt
Nghe như chủ nhân thì thào thiếu tiền?
- Uống cấm lại vò!
- Dốc nốt ta cùng!
- Mời tôi!
- Mời bác!
- Cởi hồ cừu, ngàn vàng!
- Đóng ngựa hoa năm sắc!
Hò trẻ em luôn rượu trứ danh sang tất
- Cùng uống say tan
“Muôn kiếp - sầu - đời”!
Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 22/11/2007 07:49
Bản dịch thơ "Xưa, một chàng hoạ sĩ..." là do Thái Bá Tân dịch. Mới đây bản này được đăng trong tạp chí <i>Văn học nước ngoài</i> số 3-2006, trang 152.
Về dịch giả này chắc không cần chú thích :-D
Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 30/07/2007 23:23
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 04/03/2009 20:20
Dưới cầu Mirabeau trôi dòng Seine
Và tình ta nữa
Chẳng biết anh còn nên nhớ
Niềm vui lại đến sau nỗi ưu phiền
Đêm cứ về giờ cứ điểm
Tháng ngày đi anh vẫn còn đây
Tay trong tay mình cứ đối mặt nhau
Cánh tay mình làm cầu
Dưới cầu qua qua mãi
Làn nước chán chường vì ánh mắt thiên thu
Đêm cứ về giờ cứ điểm
Tháng ngày đi anh vẫn còn đây
Tình yêu ra đi như nước kia tuôn chảy
Tình yêu ra đi
Cuộc đời sao mà chậm rì
Hy vọng sao mà dữ dội
Đêm cứ về giờ cứ điểm
Tháng ngày đi anh vẫn còn đây
Ngày qua rồi lại tuần qua
Mà quá khứ
Và những cuộc tình không trở lại
Dưới cầu Mirabeau trôi mãi dòng Seine
Đêm cứ về giờ cứ điểm
Tháng ngày đi anh vẫn còn đây
Trang trong tổng số 3 trang (28 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3]