Trang trong tổng số 6 trang (54 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Thủ 31 (Lê Hữu Trác): Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật

Gần nay các cao sĩ,
Đều chuộng sự thanh nhàn.
Rượu hả cúc Bành Trạch,
Cuộc đổi cờ Tạ An.
Thế sự xem rưa rứa,
Nhân tình nghĩ dở dang.
Vong cơ cười khúc khích,
Âu lộ bãi thênh thang.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thủ 30 (Lê Hữu Trác): Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật

Được nhàn là đủ thoả,
Bất tất suối rừng đâu.
Tổn ích suy lời dịch,
Tâm thân ngẫm lẽ mầu.
Xem chim truyền trại rậm,
Thưởng cá lượn ao sâu.
Khách vào không tiếp truyện,
Thổi sáo trả lời nhau.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thủ 29 (Lê Hữu Trác): Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật

Cởi mũ thâm ra dận dép rừa,
Gươm đàn quẩy thẳng nẻo vườn xưa.
Anh hùng gánh nước dăm rau cỏ,
Khoáng sĩ câu trăng cuốc gió mưa.
Mời rượu trăng lồng bên mặt nước,
Hoạ đàn hoa nở trước song thưa.
Chiều hôm tiếng địch chăn trâu thổi,
Văng vẳng đầu non dạo vó lừa.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thủ 47 (Lê Hữu Trác): Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật

Nước mây làng tịch mịch,
Hoa cỏ cảnh thiền lâm.
Vô trần lên giác ngạn,
Bửu vị nếm từ tâm.
Trăng bề phô kim tướng,
Gió thông gảy đạo cầm.
Chuông khuya cùng trống sớm,
Dóng dả tiếng hoà âm.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thủ 46 (Lê Hữu Trác): Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật

Tiêu điều những cảnh qua hồi loạn,
Nay đã trùng tu đã rõ ràng,
Giếng cổ trong veo ngâm tẩm nguyệt,
Sen thơm bay mọc ứng điềm làng.
Lầu cao vang khắp tiếng chuông trống,
Thông vẳng nghe ra dịp nhị đàn,
Bay mỏi chim kia nên nhớ tổ,
Lạc đàn lận đận chốn tha nhang.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thủ 45 (Lê Hữu Trác): Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật

Những chỗ chơi khi nhỏ,
Nay càng ngán nỗi lòng.
Là vàng bay mấy độ,
Sóng bạc lại về trông.
Cây con nay đã cỗi,
Cầu cũ vẫn hình cong.
Giục người ngày tháng chóng,
Năm nọ còn ai không.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thủ 44 (Lê Hữu Trác): Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật

Cố hương về đến chốn,
Tình lại cảm thương hơn.
Nô chơi qua những chỗ,
Ngần ngại đứng đòi cơn,
Chùa mới cảnh cây đẹp,
Đình cũ cỏ hoa thơm,
Hỏi ông cha lũ trẻ,
Lẫn cả tên cúng cơm.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thủ 50 (Lê Hữu Trác): Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật

Ba mươi năm cách chốn giang thôn,
Nay dạo qua xem cảnh vẫn còn.
Hoa nở bến Hà vàng rực tối,
Cò ăn đáy Đặng trắng phau cồn.
Ngọn núi Tuyết nhô làn nước lạnh,
Bóng chùa Hương áng lúc chiều hôm.
Sư biết khách thuyền ngâm ngợi khổ,
Đừng cho nghe thấy tiếng chuông dồn.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thủ 49 (Lê Hữu Trác): Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật

Qua ao bán nguyệt tới thiền quan,
Xan xát lâu đài ngất trước làng.
Dẫy trúc la đà theo khúc hạm,
Đường hoa quanh quất diễu hành lang.
Tháp chín tầng cao đèn sáng quắc,
Chuông hai gác đối tiếng kêu vang,
Cảnh cũng u nhàn chùa cũng tĩnh,
Quả dâng sao vẳng vượn từng đàn.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thủ 48 (Lê Hữu Trác): Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật

Bái biệt lầu rồng lạnh lẽo ra,
Gươm đàn vội giã chốn kinh hoa,
Ngựa chạy thẳng dong quen lối cũ,
Thuyền khôn trở lại giữ dòng xa.
Mây cũng vị tình che bóng nắng,
Núi nhường hiểu ý mỉm cười ta.
Ngàn tây muôn ngọn xanh xanh biếc,
Hai ngọn kia như núi của nhà.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

Trang trong tổng số 6 trang (54 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: