Kính gửi BQT Thi Viện,
Tiêu Đồng Vĩnh Học có mấy ý kiến trao đổi về việc xin lập thêm tác giả Nguyễn Thực như sau:
Năm nay kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, đây là dịp để chúng ta tưởng nhớ tổ tiên đã gây dựng nên Kinh Đô nước Đại Việt, đặc biệt chúng ta tưởng nhớ đến Lý Thái Tổ và Vương triều nhà Lý đã đặt nền móng cho Văn hiến Thăng Long mà từ đó Văn minh Đại Việt đã bước sang một kỷ nguyên mới với các triều đại nối tiếp nhau xây dựng nền thái bình thịnh trị.
Sau cuộc đảo chính lật đổ nhà Lý của họ Trần, nhiều con cháu họ Lý đã thay tên đổi họ, mai danh ẩn tích. Đến khi nhà Trần mất ngôi vào tay nhà Hồ, con cháu nhà Lý (lúc này đã đổi thành họ Nguyễn) mới có cơ hội trở về quê cũ Đông Ngàn (Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay) lập cư tại Vân Điềm (nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội), cạnh làng Ông Mặc (nay là thôn Hương Mạc thuộc huyện Từ Sơn, quê của Cụ nghè Đàm Thận Huy và Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh) và Kim Thiều (quê ngoại của đại thi hào Nguyễn Du).
Người đầu tiên mở ra truyền thống khoa bảng, đỗ đạt vinh hiển cho dòng họ Nguyễn (gốc Lý) ở Vân Điềm là Đình nguyên Hoàng giáp Nguyễn Thực.
Vì vậy để tưởng nhớ công đức nhà Lý và giúp cho độc giả biết đến một bậc danh thần phò tá có công lao tài đức, biết thêm một nhà thơ thời Trung đại, Tiêu Đồng Vĩnh Học xin đề nghị Ban quản trị của Thi Viện tạo thêm tác giả Nguyễn Thực (ông là tổ tiên của Hoàng Giáp Nguyễn Tư Giản, hiện đã có trang thơ trên Thi Viện).
Tiêu Đồng Vĩnh Học xin bước đầu cung cấp tiểu sử tác giả Nguyễn Thực và một bài thơ của Ông, các bài thơ khác sẽ lần lượt đưa lên Thi Viện sau.
Tiểu sử tác giả:
Nguyễn Thực 阮 實 (1555-1637), tự Phác Phủ 朴 甫, người làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc, nay thuộc xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Nguyễn Thực thi đỗ Đình nguyên, đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân năm Ất Mùi, niên hiệu Quang Hưng 18 (1595) đời vua Lê Thế Tông. Sau khi thi đỗ, Nguyễn Thực trải nhiều chức quan khác nhau và lên đến tột đỉnh của danh vọng: Tán trị công thần, Tham tụng, Lại bộ Thượng thư, Chưởng Hàn lâm viện sự kiêm Đông các Đại học sĩ, Quốc lão, Thái phó, tước Lan Quận công. Năm Bính Ngọ, niên hiệu Hoằng Định (1606), ông được cử làm Phó sứ sang nhà Minh. Năm đầu niên hiệu Dương Hòa (1635), sau gần 40 năm phụng sự triều đình Lê – Trịnh, ông được về trí sĩ. Lệ quan Thượng thư Quốc lão về trí sĩ bắt đầu từ Nguyễn Thực. Sử sách cũ đều chép Nguyễn Thực là người “dùng đức độ danh vọng mà trấn phục người trong nước, thanh liêm, sẻ nhặt, giữ gìn, mộc mạc, điềm đạm, thích lễ nghi, ở trên triều đường kính cẩn như không dám nói” (Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục), hay “Ông là người thuần hậu, trong sạch, cẩn thận, không lập sản nghiệp, làm quan trải những bước vinh hiển trọng yếu mà nhà vẫn thanh bạch, có phong độ như bậc danh thần đời xưa” (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí). Ông còn là vị quan khẳng khái, không sợ cường quyền, cùng Nguyễn Khải tham hặc một số vị quan của bộ Lại nhũng lạm trong việc tuyển bổ khiến họ bị bãi chức. Nguyễn Thực còn can ngăn cả vua Lê Thần Tông từ bỏ cuộc hôn nhân trái luân thường đạo lý với con chúa Trịnh Tráng là Trịnh Thị Ngọc Trúc (năm 1630). Năm 1637, Nguyễn Thực mất, thọ tám mươi hai tuổi, được truy tặng Thái tể và ban tên thụy là Trung Thuần. Triều đình còn ban cho 64 mẫu quan điền ở bốn xã để làm ruộng thờ.
Tác phẩm của ông, còn 16 bài thơ cận thể chép trong Toàn Việt thi lục 全 越 詩 錄.
Nguyên văn chữ Hán:
奉 使 登 程 自 述
壯 歲 叨 登 將 相 科
濫 膺 盛 選 咏 皇 華
車 馳 嶺 嶠 山 消 瘴
船 渡 江 淮 水 帖 波
燕 北 駸 駸 通 夏 貢
交 南 早 早 返 周 車
歸 期 有 幸 全 君 命
忠 孝 初 心 矢 靡 他
Phiên âm:
PHỤNG SỨ ĐĂNG TRÌNH TỰ THUẬT
Tráng tuế thao đăng tướng tướng khoa,
Lạm ưng thịnh tuyển vịnh Hoàng hoa.
Xa trì Lĩnh Kiệu sơn tiêu chướng,
Thuyền độ Giang, Hoài thủy thiếp ba.
Yên Bắc xâm xâm thông Hạ cống,
Giao Nam tảo tảo phản Chu xa.
Quy kỳ hữu hạnh toàn quân mệnh,
Trung hiếu sơ tâm thỉ mị tha.
Dịch nghĩa:
TỰ THUẬT TRÊN ĐƯỜNG VÂNG MỆNH ĐI SỨ
Tuổi cường tráng được thi đậu khoa tướng tướng (1),
Lạm phần tuyển vào hàng ngâm vịnh thơ Hoàng hoa (2).
Xe dong ruổi miền Lĩnh Kiệu, núi tan khí độc (3),
Thuyền qua sông Trường Giang, sông Hoài, sóng nước yên lặng (4).
Ngựa hướng phía Bắc Yên Kinh dâng cống phẩm cho nhà Hạ,
Xe Chu mong được sớm về đất Giao phía Nam (5).
Ngày về được may mắn làm tròn mệnh vua,
Lòng trung hiếu vốn có không bao giờ đổi khác.
Chú thích:
(1) Khoa tướng tướng: Chỉ Khoa thi hội, thi đình chọn tuyển tiến sĩ. Về trình độ tiến sĩ có thể làm tướng văn thời bình, làm tướng võ thời chiến.
(2) Người vịnh thơ Hoàng hoa: tức là Sứ thần. Do Kinh Thi có bài Hoàng hoàng giả hoa tả người đi sứ, nên người đời sau dùng từ Hoàng hoa để chỉ các sứ thần.
(3) Lĩnh Kiệu: cũng là chỉ núi Ngũ Lĩnh ở phía Nam Trung Quốc.
(4) Giang là sông Trường Giang, Hoài là sông Hoài Hà.
(5) Chu Xa: xe nhà Chu.
Dịch thơ:
Tuổi xuân sức tráng đã đăng khoa,
Được chọn sứ quan của nước nhà.
Lĩnh Kiệu xe đi xua chướng khí,
Giang, Hoài sóng lặng sứ thuyền qua.
Ngựa sang Yên Bắc dâng đồ cống,
Xe hướng Giao Nam trở lại nhà.
Hứa hẹn mệnh vua luôn giữ trọn,
Trước sau trung hiếu một lòng ta.
(Theo Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 5, NXB Khoa học xã hội, 2000)
Nguồn tham khảo:
1. Bùi Duy Tân (chủ biên), Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 5, NXB Khoa học xã hội, 2000.
2. Bùi Xuân Đính, Bùi Viết Chức (đồng CB), Các làng khoa bảng Thăng Long - Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia, 2004.
Xin cảm ơn BQT Thi Viện!
Tiêu Đồng Vĩnh Học.
Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.