Tạo thêm tác giả:
Morikawa Chikukei 森川竹磎 (1869 - 1918), tự là Vân Khanh 云卿, hiệu là TânTi Thiền Lữ 鬓丝禅侣, người Tokyo. Ông thuộc dòng họ lãnh chúa Morikawa thời Mạc phủ, gia cảnh nghèo khó, chán nản với quan trường, tự gán mình là "Từ tinh 词星", cả đời chuyên chú việc ỷ thanh điền từ. Năm Minh Trị thứ 19 (1886), lập ra Âu Mộng ngâm xã 欧梦吟社, soạn "Âu Mộng tân chí 欧梦新志"; năm Minh Trị thứ 44(1911), soạn "Tuỳ Âu tập 随欧集"; năm Đại Chính thứ nhất (1912), soạn "Thi uyển 诗苑". Các sáng tác của ông hiện còn "Đắc Nhàn tập 得闲集", "Tiểu Lãng Đào tập 小浪淘集", "Bính Thìn Xuất Du tập 丙辰出游集", "Từ luật đại thành 词律大成".... Ông là Từ nhân đạt thành tựu cao trong Từ sử của Nhật Bản, phong cách từ theo lối của Tưởng Trúc Sơn 蒋竹山 (Tưởng Tiệp đời Tống), Chu Trúc Tra 朱竹垞 (đời Thanh).
(Theo Nhật Bản từ tuyển, NXB: Nhạc Lộc thư xã (TQ), 1985)
水调歌头
地震纪异
东海大地震,闻说忽惊魂。
就中浓尾殊甚,死者数千人。
原野裂兮喷水,山谷崩焉飞石,屋宇溃而焚。
昨日繁华地,骞忽化荒坟。
长平坑,咸阳火,恐非伦。
啾啾新鬼,诉冤哭泣满乾坤。
那更孤儿寡妇,到处觅夫呼母,日夜最酸辛。
幸有圣明在,赈恤仰优恩。
Phiên âm:
Thuỷ điệu ca đầu
Địa chấn kỷ dị
Đông Hải đại địa chấn, Văn thuyết hốt kinh hồn.
Tựu trung Nùng Vĩ (1) thù thậm, Tử giả sổ thiên nhân.
Nguyên dã liệt hề phún thuỷ, Sơn cốc băng yên phi thạch, Ốc vũ hối nhi phần.
Tạc nhật phồn hoa địa, Khiên hốt hoá hoang phần.
Trường Bình kháng (2), Hàm Dương hoả (3), Khủng phi luân.
Do do tân quỷ, Tố oan khốc lạp mãn càn khôn.
Na cánh cô nhi quả phụ, Đáo xứ mịch phu hô mẫu, Nhật dạ tối toan tân.
Hạnh hữu Thánh minh tại, Chẩn tuất ngưỡng ưu ân.
Dịch từ
Điệu từ "Thuỷ điệu ca đầu"
Chép chuyện chẳng lành khi xảy ra động đất
Đông Hải xảy động đất, Nghe kể chợt kinh hồn.
Chỉ riêng Nùng Vĩ nặng nhất, Thiệt mạng mấy nghìn dân.
Hang núi sụt thời lở đá, Đồng nội nứt chừ phun nước, Nhà đổ cháy sạch trơn.
Hôm trước phồn hoa thế, Bỗng hoá chỗ mồ chôn.
E còn quá, Vùi quân Triệu, Đốt cung Tần.
Hồn ma ai oán, Cùng trời suốt đất khóc than thân.
Thêm nữa con côi vợ goá, Gọi mẹ tìm chồng khắp cả, Sớm tối mấy đau buồn.
May có bậc vua sáng, Chẩn tuất thảy nhờ ơn.
"Nhật Bản từ tuyển" bàn về bài từ này có đoạn: Bài từ miêu tả thảm cảnh sau thiên tai động đất, chứa đựng sự đồng cảm sâu sắc với nhân dân. Chikukei có bài thơ Tứ tuyệt: "雁鸿瞭唳暮云外,兴感苍茫夕照中。渺渺予怀收不得,樽前懒唱大江东。(Tạm dịch: Nhạn kêu lanh lảnh tầng mây muộn, Cảm khái bao la bóng ác lồng. Man mác niềm tây cầm chẳng đặng, Chén nâng biếng hát "Nước về đông".), có thể dùng làm lời cước chú cho bài Từ này vậy.
_______
Chú thích:
(1). Trận động đất lớn năm 1891, ước tính từ 7,9 đến 8,4 độ Richter, xảy ra ở tỉnh Gifu 岐阜 thuộc vùng Mino Owari, Trung Nam bộ đảo chính Nhật Bản. Đương thời, vùng đất đó có tên gọi là Mỹ Nùng (Mino) và Vĩ Trương/ Vĩ Trương quốc (Owari/Owari no kuni), nên người ta gọi là Nùng Vỹ đại địa chấn.
(2). Thời Chiến Quốc (TQ), tướng nước Tần là Bạch Khởi đánh thắng tướng Triệu Quát nước Triệu, chôn sống 40 vạn tù binh Triệu ở Trường Bình.
(3). Tướng Sở là Hạng Vũ đánh vào kinh đô Hàm Dương nước Tần, phóng hoả đốt cung A Phòng, lửa cháy cả tháng không dứt.
2. 水调歌头
六月十五日,宫城,岩手,青森三县海溢,怅然有赋
北陆海溢矣,哀雁为凄然。
魂魂夜色如墨,浊浪势滔天。
蘸了村庄三县,没了生灵三万,一夜梦摧残。
瓦片不留迹,渺渺此北原。
天何意,民何罪,欲猜难。
沉沙泛水,死而不葬饱鸟鸢。
赢得残生离散,一样无辜无饭。
号泣诉苍天,天亦不知耳。
Phiên âm:
Thuỷ điệu ca đầu
Lục nguyệt thập ngũ nhật, Cung Thành, Nham Thủ, Thanh Sâm tam huyện hải dật, trướng nhiên hữu phú
Bắc lục hải dật hỹ, ai nhạn vị thê nhiên.
Hồn hồn dạ sắc như mặc, Trọc lãng thế thao thiên.
Trám liễu thôn trang tam huyện, Một liễu sinh linh tam vạn, Nhất dạ mộng tồi tàn.
Ngoã phiến bất lưu tích, Diểu diểu thử Bắc nguyên.
Thiên hà ý, Dân hà tội, Dục sai nan.
Trầm sa phiếm thuỷ, Tử nhi bất táng bão điểu diên.
Doanh đắc tàn sinh ly tán, Nhất dạng vô cô vô phạn.
Hiệu lạp tố thương thiên, Thiên diệc bất tri nhĩ.
Dịch từ:
Điệu "Thuỷ điệu ca đầu"
15/6, ba tỉnh Miyagi, Iwate, Aomori bị nước biển dâng, đau buồn làm bài từ
Miền Bắc biển ngập dữ, Thảm thiết nhạn truyền thanh.
Mịt mùng bóng tối như mực, Sóng đục vỗ thiên đình.
Đắm trọn làng mạc ba tỉnh, Nhấn trọn ba vạn sinh mệnh, Một tối mộng tan tành.
Ngói vụn chẳng chừa lại, Dải đất Bắc mông mênh.
Trời sao nỡ, Dân đâu tội, Khó phân minh.
Vùi bùn cuốn lũ, Xác phơi cho thoả quạ diều phanh.
Còn chút hơi tàn đi lánh, Lũ lượt bơ vơ đói rách.
Kêu khóc thấu trời xanh, Trời cũng nào đâu tỏ.
---------------------------
Nam Long: Thông thường, điệu Từ "Thuỷ điệu ca đầu" gồm 2 phiến, mỗi phiến 4 vần, nhưng bài này khác ở chỗ thiếu 1 vần (thiếu 1 câu cuối) ở phiến sau. Chưa xem được văn bản gốc của Morikawa Chikukei nên gác lại, tạm vẫn theo "Nhật Bản từ tuyển".
3. 水调歌头
八月二十三日,浓州大水,忆前年西游,此日正在岐阜,惨然歌商调一曲
水浸美浓国,闻说使人惊。
金华山动,黃流混混与天平。
失却千村万落,泛尽儿童老弱,生死不分明。
一半葬魚腹,谁肯吊其灵。
果何罪,仰天哭,甚无情。
回头历历,去年此日记曾经。
三十六湾秋冷,十八楼头夜静,乌鬼獲魚鳴。
想見无人地,一段月光青。
Phiên âm:
Thuỷ điệu ca đầu
Lục nguyệt nhị thập tam nhật, Nùng Châu đại thuỷ, ức tiền niên Tây du, thử nhật chính tại Kỳ Phụ, thảm nhiên ca Thương điệu nhất khúc.
Thuỷ xâm Mỹ Nùng quốc (1), Văn thuyết sử nhân kinh.
Kim Hoa (2) sơn động, Hoàng lưu hỗn hỗn dữ thiên bình.
Thất khước thiên thôn vạn lạc, Phiếm tận nhi đồng lão nhược, Sinh tử bất phân minh.
Nhất bán táng ngư phúc, Thuỳ khẩn điếu kỳ linh.
Quả hà tội, Ngưỡng thiên khốc, Thậm vô tình.
Hồi đầu lịch lịch, Khứ niên thử nhật ký tằng kinh.
Tam thập lục loan thu lãnh, Thập bát lâu đầu dạ tĩnh, Ô quỷ hoạch ngư minh.
Tưởng kiến vô nhân địa, Nhất đoạn nguyệt quang thanh.
Dịch từ:
Điệu "Thuỷ điệu ca đầu"
23/6, nước lớn vùng Mino, nhớ năm trước đi chơi về phía Tây, ngày này đương ở tỉnh Gifu, đau buồn hát một bài điệu Thương
Nước tràn Mỹ Nùng quốc, Nghe kể đến bàng hoàng.
Kim Hoa rung núi, Lẫn trời cuồn cuộn lũ dâng ngang.
Mất hết muôn nghìn làng mạc, Cuốn sạch đầu xanh tóc bạc, Sống thác chẳng rõ ràng.
Quá nửa vùi bụng cá, Hồn phách ai đưa tang.
Sao nên tội, Trông trời khóc, Chẳng đoái thương.
Miên man nhớ lại, Ngày này năm ngoái ghé trên đường.
Ba sáu vịnh thu se lạnh, Mười tám lầu đêm yên tĩnh, Bắt cá cốc kêu vang.
Ngỡ chỗ không người đến, Xanh biếc ánh trăng buông.
------------------
Chú thích:
(1): đã chú thích ở bài 1
(2): Núi KinKa biểu tượng của tỉnh Gifu.
(Nam Long dịch từ)
(Nguồn:
http://vn.360plus.yahoo.com/nam_long2004/ )
Du ư nghệ