Bạn Comman: Bạn có "Cho em hỏi tý: Em dịch gia phả gặp một chữ (tên riêng) mà tra mãi không ra. Bác chỉ cho em với: Bên trái là bộ băng (冫); bên phải là chữ dĩ (已) hoặc chữ kỷ (己). 冫已 hoặc 冫己 Giúp em với nha. Cảm ơn bác."
Bộ Băng với Dĩ hoặc Kỷ đều không thấy, ngay cả trong Khang Hy TĐ, Từ nguyên, bộ chữ của Đài loan cũng vậy. Nếu là Bộ Thuỷ thì là Dĩ (sông Dĩ,Hà nam, TQ) Nếu đấy là chữ Nôm thì sao ? Chữ Nôm lại chưa được quy chuẩn. 冫已 hoặc 冫己. Đọc là Dĩ, là Kỷ thôi. Còn đúng nhất, theo kinh nghiệm, phải hỏi gia đình, họ tộc. Chuyện này không phải là hiếm. Và không giải đáp được, cũng không phải là ta không cố gắng. Chúc bạn tấn tới. Thân ái. Hà Như.
Tái bút: Có nên đề cập việc trên ở chuyên đề này không, sợ trái quy định của Thi Viện,là bị nhắc nhở, hoặc bị xoá đấy. HN
Bạn Comman: Theo kinh nghiệm: Nếu là tên Nôm, có thể từ có phụ âm D , Gi, R , K, Kh .. Nguyên âm i , y .. với các thanh âm. Nhưng có thể: Bộ Băng mà bạn nhìn thấy, rất có thể là Bộ Thuỷ, Bộ Ngôn viết láu. Nếu có yêu cầu tra cứu, xin vào chuyên đề cần hỏi và hoặc gửi thông điệp, hoặc cả 2 thì tốt hơn. Nhỉ ? Vì ngoài HN ra, có thể gặp người hiểu biêt hơn và ta tránh phạm quy, vì đây là Thơ Tập cổ, mà NgTh là người kỹ tính lắm. HN sẽ đề nghị chuyển 4 blok này nhé, hoặc Comman đề nghị cũng được. Chúc tiến bộ. Thân ái. Hà Như.
Xin chào HN,Hôm ra dự thơ Đường anh em có vào Bái Đính (N.bình),PN có làm bài này mời HN đọc nhé Du xuân Bái Dính Du xuân cất bước dạo nơi nơi Nay đến Hoa Lư biếc núi đồi Ngắm mái chùa xưa vương khói phủ Nhìn ngôi tháp cổ đọng sương rơi Đá xanh trăm tượng tôn trên bệ Đồng quý một chuông dựng giữa trời Độc nhất- nơi đây chùa Bái Đính Một vùng tráng lệ nước non ơi. 15.4 Khi nào rỗi qua PN chơi nhé.
Qua HN,PN đưa một tin vui.Hôm nay PN nhận báo NCT số24 tr6 lại nhắc đến bài Vịnh hồ Hoàn Kiếm,PN cũng thấy thơm lây.Khuya rồi ngày mai tâm sự nhé(23h 25s 16.4) xin chào.
Ông Lương Nam Xương 梁 南 昌, 72 tuổi, giáo sư ngôn ngữ Trường Đại học Hải Nam, Trung quốc, đang giảng dạy tại Việt Nam, có làm và gửi tặng Trần Thế Hào bài thơ họa bài Vịnh hồ Hoàn Kiếm, ngay tại sân nhà Thái học, Quốc Tử giám trong ngày hội Thơ Đường.
Xin trân trọng cảm ơn Ông Lương Nam Xương và xin giới thiệu với bạn đọc Thi viện nguyên văn.
Phiên âm: Họa Trần Thế Hào tiên sinh Vịnh Hoàn Kiếm hồ thi
Vô hạn xuân sắc vô hạn tư Kiếm hồ xuân thủy vi trầm phù Thê Húc hồng kiều thượng kiên trụ Tả thiên bút tháp vĩnh bạn hồ Thiên niên căn thâm hiển xích tự Kim quy thanh sử lưu cổ thư Hào tình tận phóng túy thi tửu Du du thành Hà bách tính cư.
Lương Nam Xương vu Hà Nội Canh Dần xuân
(Bài làm theo thể cổ phong. Do tiếng của Trung quốc hiện tại không còn giống với đời Đường, nên khi đọc bằng từ Hán Việt có thể không thuận lợi thanh điệu bằng tiếng Việt. Về chữ nghĩa, văn chương, cũng thật khâm phục. Nghĩa của bài tương tự như bài Vịnh hồ Hoàn Kiếm, tiếp ngay sau bài này)
Bài Vịnh hồ Hoàn Kiếm của Hà Như Trần Thế Hào được trình bày tại Ngày hội Thơ Đường lần thứ V tại Văn Miếu, Quốc Tử Giám, Hà Nội.Ngày 21-3-2010 (tức Ngày 6, tháng Hai, năm Canh Dần) Xin được phép giới thiệu nguyên văn với bạn đọc Thi Viện. 詠 還 劍 湖
Vịnh Hoàn Kiếm hồ Xuân thì lục liễm biệt hàm tư, Thùy vị họa thi lãng đãng phù. Thê húc phỏng kiều hồng nhiễm trụ, Tả thiên qua bút mặc thôi hồ. Hồi căn, hoàng diệp đề cung tự, Xuất huyệt, kim quy thuyết cổ thư. Kính diện tự tu do cáo tửu, Vô vu thủy giám, đáng dân vu.
Nghĩa: Vịnh hồ Hoàn Kiếm Ngày xuân, sóng hồ Lục thủy có vẻ đẹp riêng, Ai bảo là Họa Thơ chơi vơi trên sóng nước . Màu sơn của cầu giống mặt trời, loang đỏ cả trụ, Mực bút khi viết lên trời quá tay rơi xuống thẫm hồ. Chiếc lá vàng về cội còn viết được chữ Cung, Rùa vàng dời huyệt giảng lại sách ngày xưa. Hồ nước ngượng ngùng do sách Tửu cáo dạy, Người dân đáng làm gương hơn mặt nước.
Chú thích: Sách cổ Tửu cáo 酒誥 có câu : 人無于水監,當于民監. Nhân vô vu thủy giám, đáng vu dân giám. (Người ta không nên lấy nước làm gương, mà nên lấy dân làm gương)
Dịch thơ: Vịnh hồ Hoàn Kiếm Ngày xuân, Lục thủy đẹp ai ngờ, Nét vẽ xem chừng kịp tứ thơ. Nắng đọng thành cầu loang đỏ trụ, Tháp vương mực bút thẫm xanh bờ. Lá vàng về cội, đề dăm chữ, Rùa cụ dời hang, giảng mấy từ. Mặt nước thẹn khuyên đừng đắm đuối, Gương dân còn đáng ngắm hơn hồ.
Báo Người Cao tuổi Website: www.nguoicaotuoi.org.vn mục Văn hóa - Du lịch (Thứ Ba, 23/03/2010-8:45 AM) Báo viết số 24 ra ngày 24-3-2010 trang 6 - Nhịp sống Văn hoá có bài: Ngày hội thơ Đường Việt Nam lần thứ 5 "Viên ngọc" Đường thi tỏa sáng
(Trích đoạn nói về bài Vịnh hồ Hoàn Kiếm) ..... Ở một góc, tác giả Trần Thế Hào say sưa trao đổi, giải thích ý nghĩa bài thơ "Vịnh hồ Hoàn Kiếm" của anh, được viết bằng chữ Hán, dịch ra chữ quốc ngữ: "Xuân thì lục liễm biệt hàm tư,/Thùy vị họa thi lãng đãng phù./Thê Húc phỏng kiều hồng nhiễm trụ,/Tả thiên qua bút mặc thôi hồ./Hồi căn, hoàng diệp đề cung tự,/Xuất huyệt kim quy thuyết cổ thư./Kính diện tự tu do cáo tửu,/Vô vu thủy giám, đáng dân vu.". Đây là bài thơ "ý tại ngôn ngoại", tác giả gửi gắm vào đó nhiều ý tứ sâu xa. Ví dụ như câu "Hồi căn, hoàng diệp đề cung tự", chiếc lá vàng khi rơi về cội còn vẽ chữ Cung, nghĩa là cả đời thắng rồi, thế nào chẳng có lúc cong! Hoặc câu "Vô vu thủy giám, đáng dân vu", tác giả lấy ý tứ từ sách Tửu cáo của Khổng Tử, có câu: "Nhân vô vu thủy giám, đáng vu dân giám", có nghĩa rằng "đừng nên lấy mặt nước làm gương soi, mà nên lấy dân làm gương". Thế mới biết, Thơ Đường thật sâu sắc, đáng được truyền lại muôn đời. ...... Minh Trang
Xin cám ơn lời nhận xét tốt của Quý báo và nhà báo Minh Trang Hà Như
Ngân hà. Lấp lánh Ngân hà với vạn sao, Sông đâu có biết biển nơi nào. Chàng Ngưu khản giọng hò trâu bạc, Ả Chức ngừng tay giặt lụa đào. Nếu xứ thần tiên vò đắng chát, Thà nơi trần tục đãi thanh cao. Em đừng khỏa động xô vầng sáng, Ô thước tìm về đậu chốn nao.
Con voi thứ 100 Nhiều người bảo con voi này bất nghĩa, Riêng một mình ngược hướng cả đàn voi. Có hay đâu nó là tên lính gác, Nhận hy sinh cho đồng đội, giống nòi.
Chú thích (lược dịch): Chuyện rằng: Tại Phong châu, Phú Thọ, có 99 ngọn núi quay đầu về núi Hy Cương, giống như 99 con voi chầu Tổ. Có 1 ngọn, quay về hướng Bắc, mọi người vẫn bảo đấy là con voi bội nghĩa, nên đã bị chém. Nhưng người dân ở đấy, thì không cho là thế, mà bảo đấy là một chiến sĩ đang canh gác bị kẻ thù sát hại, nên vẫn hương khói tại đây.
Thơ Bùi Đăng Sinh (trang 45 tập Mắt bão - NXB Hội Nhà Văn)
Đệ bách tượng tử Thế gian phỉ báng tượng ly quần Tốc trảm nghịch đầu, bội nghĩa nhân. Huyết tích nhất thời hồng thẩm cựu, Hình đao vô thức bạch thanh tân. Độ kỳ, cổ sự sơ sơ ngữ, Na nhật hỏa hương thiểu thiểu phần. Thiên hạ nan tri do cảnh nhiệm, Vị tha phục cảm liệt quyên thân.
Dịch nghĩa:
Con voi thứ 100 Người đời chê trách con voi đã lìa đàn Chém chết ngay kẻ quay đầu bất nghĩa. Vết máu đôi khi còn rỉ đỏ chỗ cũ, Đao chém chắc đã sạch trắng như mới. Đến kỳ, chuyện cũ cũng được nhắc lại qua loa, Thỉnh thoảng cũng có chút ít hương khói. Thiên hạ không biết, lúc ấy voi đang cảnh giới, Vì đồng loại, dám nằm lại quên thân mình.
Hoàng Tâm xin kính chào Bác Hà Như. Dựa theo dịch nghĩa của Bác, thấy bài thơ hay, Hoàng Tâm xin mạo muội tham gia dịch thơ, kính mong Bác lượng thứ:
Trần gian phỉ báng voi lìa đàn Chém kẻ quay đầu bội nghĩa nhân Vết máu một thời còn hồng mãi Đao hình vô cảm trắng như không Đôi kỳ chuyện cũ lời sao nhãng Ngày ấy đèn hương thấp thoáng nhang Thiên hạ đâu ngờ voi cảnh giới Yêu loài dám phục hiến dâng thân
Xin cảm ơn Bác Hà Như đã góp ý, HT đã sửa lại: bỏ dòng trống