Chủ đề 8: Nên bắt đầu "tu" từ độ tuổi nào?Nhiều người cho rằng việc "tu hành của các cư sĩ tại gia" chỉ là việc của các ông già bà cả đã về hưu, rảnh việc mới có thời gian để tu. Thế nhưng căn cứ theo cách nhìn của Phật giáo thì hầu hết mọi người đều không biết rằng mình đang sống lãng phí một kiếp người. Điều này cũng dễ hiểu, bởi chúng ta vô minh, chúng ta không nhìn được luân hồi nghiệp báo, chúng ta không nhớ được vô lượng kiếp quá khứ, không hiểu được kiếp vị lai, và vì vậy hầu hết chúng ta chỉ sống cho thoải mái một kiếp này. Để rồi khi nhắm mắt xuôi tay là kết thúc tất cả.
Quả thật để thuyết phục người ta tin chuyện luân hồi chuyển kiếp, nhân quả công bằng thì thật là vô cùng khó. Bởi vì khoa học của con người không chứng minh được những chuyện đó. Ấy thế nhưng nhà khoa học vật lý hàng đầu của thế kỷ 20 là Albert Einstein lại phát biểu rằng: Khi khoa học vật lý phát triển tới đỉnh điểm thì sẽ tiệm cận với những gì mà Đức Phật đã tìm được từ hơn 2500 năm trước.
Tuy nhiên, khoa học của con người bây giờ vẫn còn rất khó để có thể chứng minh được sự tồn tại của "thân trung ấm" (linh hồn), thì nói gì đến chuyện chứng minh những vấn đề khác. Bởi thế, rất nhiều người cho rằng chuyện nhân quả nghiệp báo, luân hồi chuyển kiếp là chuyện hoang đường, không đáng tin, và vì vậy việc phải vất vả tu hành là việc không cần thiết. Nếu cứ nghĩ như thế thì mỗi người đâu cần phải sống tốt. Cứ thoải mái hưởng thụ, thỏa mãn ích kỷ cá nhân, mặc kệ cuộc đời muốn đi đến đâu thì đến.
Thế nhưng có một điều rõ ràng mà Đức Phật đã thấy rất rõ đó là luật nhân quả công bằng bao trùm cả vũ trụ đến tất cả mọi loại muôn loài. Luật nhân quả công bằng chi phối tất cả mọi loài và nằm ngoài ý muốn của bất cứ một thế lực hay một quyền năng nào khác. Ai tin cũng được, ai không tin cũng được, luật nhân quả công bằng vẫn cứ vận hành theo đúng nguyên tắc nguyên thủy của nó. Người đời có tin hay không thì nó vẫn cứ tồn tại. Giống như người mù thì không nhìn thấy vầng thái dương, nhưng không phải vì người mù không thấy mà vầng thái dương không tồn tại. Ngược lại, cho dù người mù có thấy hay không, có tin hay không thì vầng thái dương vẫn tồn tại và chiếu sáng khắp nơi.
Một điều thứ hai người ta vẫn lầm hiểu rằng: Tu là khổ hạnh, là bị bắt buộc phải ép mình khổ để tu hành. Tuy nhiên, nếu thực sự tu là khổ hạnh thì có lẽ dần dần sẽ không còn người tu nữa. Người ta không hiểu một điều rằng các vị tu sĩ Phật giáo thực sự đạt được hạnh phúc vô biên trên con đường mà các thầy đã chọn. Nhưng người đời đứng ngoài nhìn vào không thể hiểu được nên cứ nghĩ rằng "tu là khổ".
Người ta đâu có hiểu rằng: có hai loại niềm vui khác hẳn nhau. Loại niềm vui của hưởng thụ ô trọc để thỏa mãn những đòi hỏi của ham muốn đời thường. Loại niềm vui này thường cụt lủn và kéo theo sự tạo nghiệp. Ví dụ như là một kẻ thích ăn nhậu, cứ có chút tiền là đi nhậu, nhậu bất biết trời đất ra sao, và kẻ đó cho rằng chỉ có như vậy là vui. Thế nhưng, ngay sau khi cuộc nhậu kết thúc thì niềm vui cũng tắt ngúm. Và cái nghiệp tạo ra thì vô vàn, như là nghiệp sát sanh, nghiệp lãng phí, nghiệp vọng ngữ vì ai nhậu nhẹt mà chẳng lời ra tiếng vào. Loại niềm vui này không thể so sánh được với niềm vui của trí tuệ, của từ bi, của tình yêu nhân loại. Những người hiền trí sẽ tìm niềm vui nơi đọc sách, làm tình nguyện, làm từ thiện, làm những việc mang lại lợi ích cho đông đảo mọi người. Ví dụ như chuyện hai cậu sinh viên nghèo đã cứu một cô gái bị tai nạn giao thông nằm bất tỉnh trên đường đưa vào bệnh viện cấp cứu khi người đời vẫn hờ hững ngược xuôi đi qua. Người lắm tiền mà nghèo trí, nghèo tấm lòng thì chỉ ham hưởng thụ bản thân, ban đầu thì có chút vui nhưng dần dần sẽ khổ vì nghiệp chướng tạo gây nhất định phải có lúc trả. Người ít tiền mà giàu tấm lòng thì tìm niềm vui trong sự cống hiến, lúc đầu tuy vất vả nhưng sẽ có được niềm vui kéo dài mãi, và dần dần cuộc sống sẽ dễ chịu thêm bởi phước nghiệp tạo gây quả lành nhất định báo. Người vừa có tiền lại vừa có tấm lòng thì thật là càng ngày càng hạnh phúc. Người đã nghèo tiền mà lại ích kỷ thì suốt kiếp khổ lại càng khổ thêm.
Có một triết gia đã đúc kết một câu thế này:
Sống ở trên đời tham cái gì cũng dẫn đến họa diệt thân. Chỉ có hai thứ càng tham nhiều thì càng tốt: Kiến thức và Lòng tốt.Trở lại với đạo Phật, Đức Phật dạy rằng: Có được thân người là một điều rất khó. Giống như một con rùa mù ở dưới đáy sông. 100 năm mới nổi lên một lần, thì lại vô tình vớ được bọc cây khô vừa rơi xuống đúng chỗ. Bởi vậy hãy tận dụng cơ hội được làm người để mà tu.
Cao cả nhất là tu thiền để đạt được Thánh quả vị Phật thoát khỏi luân hồi đau khổ.
Tu Bồ Tát đạo (chỉ có những vị đã đạt được Thánh quả mới có khả năng tu Bồ Tát đạo).
Tu để đạt được quả vị Duyên Giác.
Tu để đạt được quả vị Thanh Văn.
Tu thập thiện để cầu tái sinh Phạm chúng làm dân cõi trời.
Tu tịnh độ để cầu tái sanh về Tây phương cực lạc, vô lượng thọ.
Nếu chưa đủ phước để xuất gia tu hành thì hãy tu phước ngay từ bây giờ để dần dần lấy phước bù cho nghiệp để từ đó cuộc sống hiện tại được cải thiện cả về vật chất, sức khỏe, lẫn tinh thần. Người ta thường hay chữa ngọn mà không quan tâm đến gốc. Khi nghèo thì thường cố làm việc hăng say để kiếm tiền cũng là chữa ngọn. Khi bệnh thì tìm đủ mọi phương thuốc để chạy chữa cũng là chữa ngọn. Khi buồn thì tìm đủ mọi cách để giải trí cũng là chữa ngọn. Thực ra cái gốc của mọi sự chính là nghiệp. Người ta sanh ra là bởi nghiệp. Lớn lên giàu hay nghèo, sang hay hèn cũng là bởi nghiệp. Già đi, bệnh vào cũng là bởi nghiệp. Chết cũng bởi nghiệp. Bởi vì nghiệp quá khứ khiến người ta nghèo, khiến người ta bệnh, khiến người ta buồn. Có chạy chữa đến đâu thì nghiệp chưa trả hết thì vẫn chưa hết nghèo, bệnh, và sầu. Nghiệp chi phối toàn bộ một kiếp người từ khi được sanh ra cho đến lúc phải từ giã cõi đời. Nói như vậy phải chăng con người đã bị nghiệp qui định và không thay đổi được số mệnh? Đúng như thế nếu người ta không tu. Nếu người ta quyết tâm tu thì đạo Phật có câu
"Tu là để chuyển nghiệp". Bởi vậy muốn trả nghiệp thì có hai cách: một là để kệ cho mọi chuyện diễn ra cho đến khi nào hết nghiệp thì thôi (tiêu cực). Hai là tạo phước để bù nghiệp = Tu để chuyển nghiệp. Khi nào phước càng dày thì nghiệp càng mỏng. Lúc ấy tự nhiên làm ăn có "may mắn", bệnh tật chẳng chữa cũng tự lui, nỗi buồn chẳng ai mua mà cũng hết.
Một câu hỏi đặt ra:
Tu như thế nào? Trên thực tế rất nhiều người nghe đến từ "tu" thì nghĩ ngay đến việc "đi tu" có nghĩa là xuất gia làm tu sĩ. Quả thật việc xuất gia làm tu sĩ không hề đơn giản. Những người kiếp này được trở thành tu sĩ, chắc hẳn kiếp trước, nhiều kiếp trước đã tạo phước dày và đã có duyên với đạo qua nhiều kiếp quá khứ.
Phàm phu như chúng ta bởi chưa đủ phước, chưa đủ duyên nên còn vướng bận nhiều bụi trần. Tham ái còn nặng mang nên có cố xuất gia chắc tu hành cũng chẳng yên, đến lúc vẫn phải hoàn tục. Tuy không thể xuất gia làm tu sĩ, thì hoàn toàn có thể làm một cư sĩ tại gia tu theo đạo để thân tâm được an lạc, và an lạc cho chính gia đình mình. Các thày tỳ-kheo luôn sẵn sàng làm lễ quy y Tam Bảo cho chúng sanh và đưa ra ngũ giới để các cư sĩ tại gia tuân theo từ đó có thể giữ được thân người khi chuyển kiếp. Gieo duyên với đạo mong cầu kiếp sau sớm được gặp đạo để có thể sớm được tu hành mong cầu giải thoát.
Trong mỗi người đều có
cái tôi cái bản ngã rất lớn. Đồng thời trong Tâm mỗi chúng sanh bao giờ cũng có một Quỉ và một Phật. Mỗi khi có chuyện gì dù nhỏ hay lớn xảy đến với mình hay xảy đến với những cái của mình, thì Quỉ trong Tâm lại hối thúc động viên cái bản ngã trỗi dậy, đó chính là lúc người ta có những ý nghĩ, lời nói và hành động tham lam, sân hận, ngu si bùng phát. Chính vì chấp ngã và chấp sở ngã quá lớn nên người ta luôn tạo cơ hội cho Quỉ trong Tâm tung hoành phá phách, và vì vậy thập ác mới tạo gây, nghiệp chướng càng ngày càng dày. Từ đó nhận thấy việc
tu là việc kiềm chế cái bản ngã, làm cho cái bản ngã của mỗi người dần dần xẹp xuống, khi bản ngã nhỏ dần cũng chính là lúc Phật trong Tâm đang khuyến khích chúng ta nghĩ, nói và làm những việc phước, hiền và trí tuệ.Ở Việt Nam hiện nay đang phổ biến hai pháp môn đó là pháp môn Thiền và pháp môn Niệm Phật. Đa số các cư sĩ tại gia thường áp dụng tu hành theo pháp môn Niệm Phật. Pháp môn Niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh Độ, là phương pháp tu hành mà người cư sĩ tại gia hàng ngày niệm Phật để sau khi mệnh chung cầu vãng sanh vào cõi Tịnh Độ của Đức Phật A-di-đà.
Vậy ta có thể cụ thể chi tiết từng việc của sự tu hành như sau:
1. Giữ ngũ giới: 1.1. Không sát sanh hại vật: Không sát sanh hại vật, trải lòng ra yêu thương mọi loài cũng là tạo phước lành.
1.2. Không trộm cắp: Không lấy những thứ không phải là của mình cũng là tạo phước lành.
1.3. Không tà dâm: Không tham đắm sắc dục cũng là tạo phước lành.
1.4. Không vọng ngữ: Không nói láo, không dùng lời lẽ chia rẽ mọi người, không chửi bới nhiếc móc người, không nói những lời vô nghĩa cũng là tạo phước lành.
1.5. Không dùng các chất gây nghiện: Không uống rượu, không hút thuốc, không sử dụng ma túy, không chơi "game"... luôn giữ cho mình minh, mẫn tỉnh táo cũng là tạo phước lành.
2. Niệm Phật nhất tâm bất loạn: Một câu niệm "Nam mô A-di-đà Phật" quả là không khó đối với bất cứ ai. Nhưng để niệm được một câu với cái tâm "nhất tâm, bất loạn" thì quả không dễ dàng chút nào. Phàm phu như chúng ta cái tâm vô cùng loạn, hình ảnh của mặt biển khi thời tiết bão gió như thế nào thì cái tâm của chúng ta nó giống y như vậy. Bởi vậy người ta không khó để đọc ra câu niệm Phật, nhưng cái khó là cùng lúc niệm bằng lời thì tâm cũng niệm như thế. Mồm thì đọc "Nam mô A-di-đà Phật" nhưng tâm lại nghĩ đến việc phải trị đứa con dâu làm sao, phải trị thằng rể thế nào, phải buôn gì, bán gì... thì có niệm cả ngàn câu vẫn không thấy Phật đâu. Nhưng nếu mỗi một câu niệm Phật mà trong tâm chỉ có hình ảnh Đức Phật A-di-đà, thì chỉ cần mười câu niệm thôi thì thân tâm đã an lạc vô cùng.
Niệm Phật thường xuyên cũng là gây tạo phước lành. Bởi khi ta niệm Phật không chỉ một mình mình nghe, mọi chúng sanh hữu hình hay siêu hình chung quanh mình cũng đang nghe. Vô tình ta đã gieo duyên cho những chúng sanh đó với đạo Phật, và vì thế phước lành được nhân lên. Khi phước càng nhiều, nghiệp càng giảm. Điều này giải thích tại sao nhiều người già tụng kinh niệm Phật thường xuyên thì lại luôn khỏe mạnh, minh mẫn, chẳng bệnh tật gì đến tận khi qua đời. Đến lúc chết, thậm chí nhiều cụ già biết được cả lúc mình chết, thế nên mới tắm rửa sạch sẽ, vận đồ đẹp, chay giới, nằm trên giường, niệm 6 chữ hồng danh "Nam mô A-di-đà Phật" rồi thanh thản đi vào cõi Tịnh độ.
Niệm Phật cũng là trợ duyên cho ngũ giới. Người thành tâm niệm Phật thì tâm từ bi khởi phát, yêu thương chúng sanh nên giữ được giới sát sanh. Thân tâm an lạc, giấc ngủ an lành nên cũng không sát hại cả chính mình. Người thành tâm niệm Phật thì tin nghiệp báo trả vay nên không dám lỡ lấy cái gì của ai, không đánh cắp cả sức khỏe của chính mình khiến cho mọi người thân chung quanh thấy yên lòng, cũng là tạo phước lành. Người đàn ông, người đàn bà thành tâm niệm Phật thì cũng mất luôn cả sự tham lam ái dục, không dám lừa gạt trinh tiết của người khác nên cũng giữ được giới tà dâm. Người thành tâm niệm Phật, cái miệng luôn bận với câu niệm "Nam mô A-di-đà Phật" thì làm gì còn miệng nào để mà nói xấu hay la mắng người khác. Tự nhiên giữ được giới vọng ngữ. Người thành tâm niệm Phật, biết được thế nào là phải thế nào là trái, luôn giữ cho mình tỉnh táo, vậy là cũng giữ được giới thứ 5 tránh sa vào nghiện ngập.
Người già cũng như người trẻ, đi đứng nằm ngồi niệm 6 chữ hồng danh "Nam mô A-di-đà Phật", Tâm hướng đến Phật, hình ảnh Đức Phật sáng ngời luôn hiện ra trong tâm. Khi đó Tâm không còn thời gian để phát ra Tham, Sân, Si nữa, như vậy thì cái gốc của thập ác cũng được khống chế, tinh thần thảnh thơi, phước lành vời vợi. Người ta gặp nhau, lạ hay quen cũng chào nhau bằng một câu "A-di-đà Phật" chính là chúc cho nhau thân tâm đều được an lạc cũng tạo phước mọi nơi. Bởi vậy dù có thấy hay không, thì cũng hãy tin rằng:
Thành tâm niệm Phật là tăng thêm phước đức.
3. Làm phước bằng các phong trào tình nguyện, giúp đỡ người khác: Có hàng ngàn việc người ta có thể làm để mang lại lợi ích dân sinh. Như nhặt rác nơi công cộng giúp gìn giữ môi trường. Đắp lại những đoạn đường sạt lở, lấp ổ gà ổ trâu, giúp thuận lợi cho người qua lại. Trồng cây gây rừng. Tham gia giúp người khác xây dựng lại nhà cửa sau khi bị thiên tai bão lũ. Hiến máu nhân đạo vừa giúp người, vừa giúp mình cải thiện sức khỏe. Và bất cứ việc gì giúp đời vui vẻ hạnh phúc đều là gây tạo phước lành. Làm phước giúp đời thân tâm an lạc.
4. Người có chút kinh tế thì có thể san sẻ, bố thí, phóng sanh... cũng mang lại phước lành cho bản thân để từ đó tiêu trừ dần dần những ác nghiệp. Hành động phóng sanh và khai thị cho chúng sanh trước khi thả chúng về với thiên nhiên lại nhận được quả báo lành về sức khỏe và tuổi thọ.
Ta chợt nhận ra ta chưa kịp trưởng thành thì tuổi già đã ập đến