TỪ KÉP HÁN VIỆT – VIỆT
ĐỒNG NGHĨA-[3]
2. Trong Ngũ thiên tự
Sự việc (VNPT 1913-1914)
Thấu rõ (Vietnamese-English dictionary 1966) (V-E D 1966) [38]
Vụ việc (Công an Nhân dân 1992) [6]
Huý kiêng = kiêng huý (Nghiên cứu chữ huý Việt Nam qua các triều đại1996) [34]
Não óc = óc não (Vạn Vật Đồng Nhất Thể 2002) [52]
Hiến dâng (TĐVA 2003)
3.Trong thiên tự văn giải âm (Nhất thiên tự):
Văn vẻ (Việt Nam tự điển 1931) [22]
Nghinh (nghênh) đón (V-E D 1966)
Chỉnh sửa (Giáo dục Thời đại 1996) [6]
Tống theo (Ba người khác 2006) [64]
II. Nhận định chung về từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa
Qua những khảo sát và dẫn chứng từ các văn bản chữ viết (Nôm, Quốc ngữ) và truyền khẩu theo từng thời kỳ lịch sử liên quan đến từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa, có khả năng chúng tôi đã tìm ra được nguyên nhân về sự phát sinh, tồn tại và phát triển của từ loại đặc biệt này:
Khởi đầu từ lịch sử dân tộc Việt Nam cổ đại với triều đại nhà Đinh (Đại Việt sử ký toàn thư đã đặt nhà Đinh mở đầu Bản kỷ) [69] đã thống nhất đất nước, giành lại độc lập sau 1000 năm lệ thuộc Trung Hoa về mọi mặt và dẫn đến sự hưng thịnh của triều đại Lý – Trần cũng chính là thời điểm của sự hình thành và ổn định âm đọc Hán Việt của chữ Hán (khoảng Đường – Tống)[10,30,44] và sự truyền dạy chữ Hán như một tử ngữ - không còn nói và đọc chữ Hán theo âm Trường An (Bắc Kinh) của Trung Hoa nữa – các nhà Nho, thầy đồ Việt xưa đã giảng dạy chữ Hán với âm đọc Hán Việt và giải thích chữ Hán bằng Quốc âm (tiếng Việt) cho người học chữ Hán thông qua truyền miệng những tự vựng kiểu Hán – Việt, có thể lúc đầu để giúp học trò dễ nhớ dễ học, các thầy đồ đã sử dụng văn vần như kiểu đồng dao phổ biến ở lớp học và trong dân gian rồi từ khi chữ Nôm xuất hiện và phát triển mới bắt đầu xuất hiện những sách học song ngữ Hán – Nôm như Tam thiên tự giải âm, Ngũ Thiên tự, Thiên tự văn giải âm…
Sau khi người học chữ Hán đã học thuộc lòng, qua giao tiếp khi nói hay viết đã tự nhiên một cách vô thức du nhập nguyên mẫu song ngữ Hán – Việt hay Hán – Nôm từ các bài học tự vựng, đồng dao, sách học chữ Hán giải âm bằng văn vần vào trong tiếng Việt theo từng thời kỳ lịch sử. Mục đích chính là nhằm xác định, bổ sung thêm ý nghĩa cho người nghe, đọc dễ hiểu (với người biết và không biết chữ Hán) cộng hưởng với quy luật phát triển ngữ âm ngày càng hướng về song tiết, đa âm tiết và nhu cầu nội tại thuộc tâm lý: thuận tai, dễ nhớ và kể cả thói quen khoe chữ, sính dùng chữ Hán. Nếu như ở các thời kỳ trước khi chữ Nôm hình thành vào thời Trần (theo lưu truyền và chứng cứ văn tự sớm nhất còn lại) chúng ta không có gì chắc chắn để chứng minh những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa đã ra đời vào thời kỳ này do quá trình học chữ Hán ngoài sự đoán định dựa vào truyền khẩu (như qua đồng dao) ra thì sau khi chữ Nôm phát triển và đặc biệt là kể từ khi các sách học chữ Hán như Tam thiên tự xuất hiện sau đó là Ngũ thiên tự, Thiên tự văn… đã là những chứng cứ rất quan trọng để chứng minh một cách xác đáng:
Vào thời kỳ xuất hiện Tam thiên tự, có một số dạng song ngữ Hán – Nôm của Tam thiên tự trùng hợp với những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa nhưng không thấy có trong các văn bản chữ Nôm, chữ Quốc ngữ trước và trong tự vị Anamitico-Latinum (1772-1773) của P.Béhaine mà lại thấy xuất hiện trong Đại Nam Quốc âm tự vị (1895-1896) của Huỳnh Tịnh Paulus Của và tự điển Annamite - Français của J.F.M Génibrel (1898). Ngay ở thời hiện tại, số lượng khá nhiều các dạng song ngữ Hán – Nôm giống với những từ kép đồng nghĩa Hán Việt - Việt có mặt trong các sách Tam thiên tự, Ngũ thiên tự, Thiên tự văn đã không hề xuất hiện trước khi chúng ra đời và cả trong thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX nhưng lại hiện diện trong thế kỷ XX và hiện nay, chẳng hạn như những từ kép: duyệt xem, ẩn giấu, di dời, vụ việc, in ấn, kiêng huý, óc não…. Thực trạng này gắn liền với sự tái bản nhiều lần các sách trên bằng chữ Quốc ngữ, qua nhiều lần hiệu chỉnh, thay đổi, bổ sung: Tam thiên tự những năm 1915, 1959, 1969, 1999, 2008…Ngũ thiên tự những năm 1909, 1915, 1929, 1934-1935, 1939, 1940, 1997, 1999, 2004, 2007… Thiên tự văn (Nhất thiên tự) những năm 1909, 1914, 2002…
Đối với các thành kiến khinh chê, giễu cợt kiểu từ loại này, theo quan điểm của chúng tôi như vậy là cực đoan, hẹp hòi bởi vì nếu tìm hiểu sâu rộng hơn về từ Hán Việt, thực ra những từ Hán Việt trong phạm vi đang khảo sát, tuy có gốc tiếng Hán nhưng chỉ khi nào chúng được sử dụng trong viết văn, làm thơ bằng chữ Hán theo ngữ pháp Hán mới được gọi là chữ Hán thuần tuý còn khi ở trong tiếng Việt, những từ Hán Việt này đã được Việt hoá cả về âm đọc (âm Hán Việt và âm Hán Việt bị biến âm), ý nghĩa và chức năng ngữ pháp. Cho nên ở góc độ này, chúng ta vẫn có thể gọi những từ Hán Việt tuy có gốc Hán cũng là những từ ngữ nằm trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Do đó, kiểu từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa xét đến cùng cũng có vai trò tương đương với loại từ ghép Việt - Việt đồng nghĩa.
Từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa, dù được khen hay chê nhưng không ai có thể phủ nhận được một sự thật: Từ xưa đến nay nhân dân ta đã sử dụng loại từ đặc biệt này và qua chứng cứ văn tự chỉ còn lại từ nhà Trần ta có thể tạm xác định sớm nhất vào khoảng từ thế kỷ XIII cho đến ngày nay, những từ kép này đã được “nhập thể” vào tiếng nói hằng ngày lẫn trong ca dao và thơ văn chữ Nôm, chữ Quốc ngữ, làm phong phú thêm tiếng Việt và tạo nên một bản sắc, một nét riêng của ngôn ngữ dân tộc Việt Nam.
ĐINH VĂN TUẤN
Chú thích
Các nhà phiên Nôm vẫn đọc là sum họp nhưng như vậy là không đúng vì thời Hồng Đức chữ Hán sâm không thể là chữ huý của Trịnh Sâm để đọc biến âm là sum được.
Trong Tam thiên tự có một số dạng song ngữ Hán – Nôm bị trùng với các từ kép Hán Việt – Việt đồng nghĩa đã xuất hiện khoảng thời Trần đến thế kỷ XVII nên chúng tôi sẽ không dùng để khảo sát ở thời kỳ này (thế kỷ XVIII cho đến cuối thế kỷ XIX).
Trong Ngũ thiên tự có một số dạng song ngữ Hán – Nôm bị trùng với nhũng từ kép Hán Việt – Việt đồng nghĩa đã có trong thời kỳ từ thời Trần đến tự vị của Béhaine nên chúng tôi sẽ không dùng để khảo sát ở thời kỳ này (thế kỷ XIX).
Trong Thiên tự văn giải âm (Nhất thiên tự) có khá nhiều dạng song ngữ Hán – Nôm bị trùng với những từ kép Hán Việt – Việt đồng nghĩa đã có trong khoảng thời kỳ từ thời Trần đến tự vị của Béhaine nên chúng tôi sẽ không dùng để khảo sát ở thời kỳ này (thế kỷ XIX).
Chúng tôi đã thử xem trong Tự điển chữ Nôm, Nguyễn Quang Hồng (chủ biên), Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2006 và Tự điển chữ Nôm trích dẫn do Viện Việt Học ấn hành 2009, nhưng đã không tìm ra (Nhân đây xin chân thành cảm ơn anh Nguyễn Doãn Vượng, đồng tác giả TĐCNTD đã có hảo ý tặng sách cũng như cùng với anh Lân ở VVH tận tình giúp tài liệu Nhất Thiên Tự).
Những thời điểm xuất hiện của các từ kép Hán Việt – Việt đồng nghĩa được dẫn ra từ các sách báo tham khảo (kể cả trên các website) trên chỉ tương đối vì do chúng tôi chưa đủ điều kiện thu thập, khảo sát toàn bộ các tài liệu, chứng từ trong thế kỷ XX, nên có thể có một số từ kép có khả năng xuất hiện sớm hơn thời điểm tìm thấy.
Tài liệu tham khảo
1. Bố cáo thành lập và giải thể công ty (Mục Dịch vụ du lịch), Tuổi Trẻ online, thứ năm 25/9/2003 (tuoitre.vn)
2. Bốn vấn đề văn bản học của Hoa tiên, Sài Phi Thư Trang, T/c Hán Nôm số 1(10) năm 1991
3. Về cuốn Tam thiên tự do Ngô Thì Nhậm soạn, Hoàng Hồng Cẩm, T/c Hán Nôm, Số 1 (80) 2007
4. Alexandro de Rhodes (1651), Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm et Latinvm, bản dịch tiếng Việt của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
5. Bùi Phụng, Từ điển Việt – Anh, Nxb Thế giới, 2003.
6. Chu Bích Thu (chủ biên), Từ điển từ mới tiếng Việt, Nxb Phương Đông, 2008.
7. Đàm Trung Pháp (Điểm sách) “Vietnamese/ Tiếng Việt không son phấn”, nguồn từ
http://www.viethoc.com/Ti...mesetiengvietkhongsonphan8. Đào Duy Anh, Giản yếu Hán Việt từ điển, Nxb Tiếng Dân, Huế 1932, (songhuong.com.vn).
9. Đào Duy Anh, Việt Nam Văn Hoá Sử Cương, Quan Hải tùng thư xuất bản, Huế, 1938, Xuất bản Bốn phương, Viện giáo khoa - Hiên Tân Biên tái bản, Sài Gòn 1951.
10. Đào Duy Anh, Chữ Nôm: Nguồn gốc – Cấu tạo – Diễn biến. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1975.
11. Đào Văn Tập, Tự điển Việt – Pháp, Nhà Sách Vĩnh Hảo, Sài Gòn, 1950
12. Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Hồ Như Sơn, Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học, 1983.
13. Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620 – 1659, Tủ Sách Ra Khơi xuất bản, Sài Gòn 1972.
14. Đỗ Thông Minh, Chữ ghép âm Hán Việt & Nôm (chữ Nôm dạng Gothic, chữ Hán-Việt dạng Time), nguồn:
http://www.phiem-dam.com /1chuhan100.pdf
15. Đoàn Trung Còn (biên soạn), Ngũ thiên tự, Nxb Thanh niên, tái bản 1999.
16. Đoàn Trung Còn (biên soạn), Tam thiên tự, , nguồn: sachxua.net
17. Gustave Hue, Tự điển Việt – Hoa – Pháp 1937 (Tái bản theo bản in Imprimerie Trung Hoà 1937), Nhà sách Khai Trí , Sài Gòn 1971
18. Hoàng Hữu Các, Nhà tỉ phú bất hạnh, Nxb Lao động, 1996.
19. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa Học Xã Hội,1990.
20. Hoàng Thị Hồng Gấm (phiêm âm và chú thích), Nguyễn Thế Nghi - Tân biên truyền kỳ mạn lục - Tác phẩm Nôm thế kỷ XVI, Nxb Văn hoá Dân tộc, 2000.
21. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập III, Nxb Giáo Dục, 1998.
22. Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt Nam tự điển, Hà Nội, 1931, Mặc Lâm tái bản, 1968.
23. Hỏi về giá trị của cuốn Ngũ Thiên Tự, Diễn đàn Viện Việt học,Hán Việt, (viethoc.com).
24. Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên (dịch và giới thiệu), Tự vị Annam - Latinh (1772 – 1773), NXB Thành Phố Hồ Chí Minh, 1999.
25. Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc âm tự vị, Tom I-II Sài Gòn 1895-1896, Nxb Trẻ, tái bản 1998.
26. J.F.M Génibrel, Dictionnaire Annamite – Français, Deuxième édition, Tân Định, Saigon 1898, nguồn sách phổ biến từ books.google.com
27. Kiều Thu Hoạch, Lý Văn Phức, Ngọc - Kiều Lê Tân truyện, Nxb Khoa Học Xã Hội, 1976.
28. Lê Anh Minh, Lược khảo Huỳnh Đình Kinh, Nxb Văn hoá - Thông tin, 2003.
29. Lê Văn Đặng (biên tập), Nhứt thiên tự (Hán-Nôm-Quốc ngữ), Ban Tu Thư Việt học xuất bản, 2002.
30. Lê Văn Quán, Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb Khoa học Xã hội, 1981.
31. Lê Xuân Mậu, Chuyện lai ghép từ Hán - Nôm, T/c Tài Hoa Trẻ, nguồn:
http://www.cinet.gov.vn /Vanhoa/Vanhoc/vh-vietnam/tungu/hannom.htm
32. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb GD, H., 1997, trang 142–152. Nguồn từ:
http://ngonngu.net/index.php?p=20733. Nam Cao, Chí Phèo (1941), Tuyển tập Nam Cao, tập 1. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1997
34. Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ huý Việt Nam qua các triều đại, Viện nghiên cứu Hán Nôm và EFEO, Nxb Văn Hoá, 1997.
35. Ngô Đức Thọ, Tây Dương Gia Tô bí lục (Ghi chép những chuyện kín của đạo Gia Tô Tây Dương), Nxb Khoa học Xã hội, 1981.
36. Nguồn tổng hợp về ca dao từ các website:
http://e-cadao.com, http://cadao.org, http://vnthuquan.net, http://www.cadaotucngu.com.37. Nguyễn Bỉnh, Ngũ thiên tự dịch Quốc ngữ, bản khắc in năm 1909, ký hiệu R.1554 (Nomfoundation.org).
38. Nguyễn Đình Hoà, Vietnamese-English dictionary. Charles E. Tuttle Co.: Pusblishers. Rutland, Vermont & Tokyo, Japan, 1966
39. Nguyễn Hữu Vinh, Ðặng Thế Kiệt, Nguyễn Doãn Vượng, Lê Văn Ðặng, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Ngọc Bích, Trần Uyên Thi, Tự điển chữ Nôm trích dẫn, Viện Việt Học ấn hành, 2009.
40. Nguyễn Khuê, Những vấn đề cơ bản của chữ Nôm, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1999.
41. Nguyễn Ngọc San, Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb Đại Học Sư Phạm (tái bản) 2003
42. Nguyễn Quang Hồng (chủ biên), Tự điển chữ Nôm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2006
43. Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt: Tiếng – Từ ghép – Đoản ngữ, Nxb ĐH&THCN, 1981.
44. Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb Khoa học Xã hội, 1979.
45. Nguyễn Thế, Phan Anh Dũng, Chinh phụ ngâm Hán Nôm hợp tuyển, Nxb Thuận Hoá, 2000.
46. Huỳnh Thị Hồng Hạnh, Cấu trúc ngữ nghĩa của vị từ có yếu tố sau biểu thị mức độ cao trong tiếng Việt, nguồn:
http://www.khoavanhoc- ngonngu.edu.vn
47. Nguyễn Thị Trung Thành, Nhận xét về những từ ghép song tiết đẳng lập chỉ trạng thái tình cảm con người, Ngôn ngữ, số 15. 2001, nguồn:
http://www.vienngonnguhoc...amp;do=Detail&nid=11148. Nguyễn Thuý Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng, Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, 1997.
49. Nguyễn Tường Bách, Lưới trời ai dệt? Tiểu luận về khoa học và triết học, Nxb Trẻ Tp. HCM, 2004.
50. Nguyễn Văn Tố, Le Hoa tiên de Nguyễn Huy Tự trong Bulletin De La Société D’seignement Mutuel Du Tonkin- Tom XVI, N. 3-4 1936, Tân Dân 1937, nguồn tài liệu phổ biến của Thư viện Quốc gia Việt Nam
http://dlib.nlv.gov.vn51. Nguyễn Văn Xuân, Chinh Phụ Ngâm Diễn âm tân khúc của Phan Huy Ích, Nxb Văn Nghệ TP.HCM, tái bản, 2002.
52. Nguyễn Văn Thọ, Vạn Vật Đồng Nhất Thể, Nxb Nhân Tử Văn, 2002, nguồn:
http://nhantu.net/TrietHoc/VVDNT/VVDNTphilo.htm53. Nhất Hạnh, Phép lạ của sự tỉnh thức, Nxb An Tiêm 1976, nguồn thuvienhoasen.org
54. Nhữ Thành (dịch), Sử ký Tư Mã Thiên, Nxb Văn học, 1988.
55. Nhức nhối về vấn đề chủ nghĩa xét lại giáo điều, Diễn đàn lịch sử, nguồn:
http://lichsuvn.info /forum/showthread.php?t=8376
56. P.J. Pigneaux, Dictionarium Anamitico - Latinum, (bản thảo viết tay) (1772-1773). Nguồn: bản pdf của NNT trong Diễn đàn VVH (viethoc.com)
57. Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên, Hồng Đức quốc âm thi tập, (in lần thứ hai có sửa chữa) Nxb Văn học, Hà Nội., 1982.
58. Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục [trích trong Đông Dương tạp chí từ số 24 đến 49 (1913-1914)] Phong Trào Văn Hoá xuất bản. Saigon 1972
59. Phan Khôi, Thần Chung 1929, Văn thư lưu trữ mở, nguồn: vi.wikisource.org
60. Tam thiên tự giải âm (ký hiệu R.468), Phú Văn Đường Tàng Bản, khắc in năm Tân Mão, 1831, (Nomfoundation.org)
61. Tam thiên tự giải dịch quốc ngữ (ký hiệu R.1667) Liễu Văn Đường Tàng Bản, khắc innăm 1915, (Nomfoundation.org)
62. Thanh Nghị, Từ điển Việt Nam, Nxb Thời thế, 1958, nguồn sách phổ biếntừ: songhuong.com.vn.
63. Thiều Chửu, Đuốc Tuệ, Hán Việt tự điển, H., 1942.
64. Tô Hoài, Ba người khác, Nxb Đà Nẵng, 2006.
65. Trần Đức Viên, Nông thôn miền núi - Những nghiên cứu hướng tới phát triển lâu bền, Nxb Nông nghiệp, 2001.
66. Trọng Toàn, Hương hoa đất nước, Nxb Trẻ, 1999.
67. Tuệ Hạnh(dịch), Tăng Triệu và tánh không học Đông phương, 1973, nguồn thuvienhoasen.org
68. Văn Tân (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa Học Xã Hội (in lần thứ 2), HN 1977
69. Viện KHXH 1985-1993 (dịch), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội, H., 1993.
70. Viện Sử học (dịch và phiên âm), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học Xã hội, 1976.
71. VietVanBook, Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, 2010.
72. Vũ Cao, Núi Đôi, Nxb Hà nội, 1990.
73. Xuân Lan (biên soạn), Thiên tự (văn) giải âm ( Nhất thiên tự), nhà in Văn Minh tái bản lần thứ hai, Hải Phòng, Hà Nội, 1914 (sachxua.net).