Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 118

DANH TƯỚNG TRẦN NGUYÊN HÃN RA OAI
TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG THAY ĐỔI


Theo chủ trương tránh mạnh đánh yếu, mùa thu năm 1425 Bình Định vương lệnh cho Tư đồ Trần Nguyên Hãn và Thượng tướng Lê Nỗ, Chấp lệnh Lê Đa Bồ đem quân đi tuần hai xứ Tân Bình (thuộc Quảng Bình ngày nay), Thuận Hoá (thuộc Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ngày nay). Nhiệm vụ của Trần Nguyên Hãn và Lê Nỗ không dễ hoàn thành vì quân Minh và nguỵ binh ở các xứ này vẫn còn rất đông, mặc dù đã mất liên lạc với các thành trì phía bắc của giặc.

Theo nhiều sử liệu cũ, Tư đồ Trần Nguyên Hãn thuộc dòng dõi Tư đồ Trần Nguyên Đán, một quý tộc nổi danh cuối thời Trần. Là người trí dũng song toàn, Trần Nguyên Hãn từ lúc theo Lê Lợi khởi nghĩa đã nhiều lần xông pha trận mạc, lập nhiều chiến công nơi trận tiền. Bình Định vương biết tài lược của ông, rất tin dùng, cho dự bàn mưu kín, rồi thăng dần lên chức Tư đồ. Việc phái Trần Nguyên Hãn vào nam không chỉ vì tài năng, mà còn vì uy tín của một hậu duệ quý tộc Trần.

Khoảng 1.000 quân Lam Sơn và 1 thớt voi hành quân từ Nghệ An vào nam, đến châu Bố Chính (thuộc Quảng Bình), gặp phải tướng Minh là Nhậm Năng đem quân dàn trận bên sông Giang đón đánh. Trần Nguyên Hãn cùng Lê Nỗ, Lê Đa Bồ thấy quân Minh đông hơn quân ta gấp mấy lần vẫn không nao núng, một mặt cho người về Nghệ An xin thêm viện binh, mặt khác bình tĩnh chia quân đối phó. Quân Lam Sơn ngầm bố trí mai phục chỗ đường hẹp tại Hà Khương, Trần Nguyên Hãn cùng quân tướng còn lại thì ra đường lớn dàn trận dụ địch.

Nhậm Năng vốn chưa đụng trận với quân Lam Sơn nên chưa không rõ về thuật dùng binh của quân ta, cứ đem hết quân qua sông mà đánh vỗ mặt. Trần Nguyên Hãn cầm quân vừa đánh vừa lui, nhử quân giặc vào bẫy. Đến chỗ mai phục, quân ta hai mặt nổi lên đánh kẹp lại. Lê Nỗ dẫn voi và các quân khoẻ mạnh xông ra, đánh cắt ngang đội tiên phong của quân Minh, phá nát thế trận của giặc. Nhậm Năng không chống nổi phải quay đầu chạy, các quân tướng giặc cũng đều tan chạy cả. Quân Lam Sơn truy bức đến tận bờ sông. Trận này quân Minh bị giết và chết đuối hơn 1.000 người. Thiệt hại phía quân ta không đáng kể.

Nhậm Năng thua trận đầu nhưng quân vẫn còn đông, tỏ ra thận trọng hơn. Lúc này, Bình Định vương Lê Lợi nhận được tin tức từ cánh quân nam tiến của Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ và Lê Đa Bồ báo về, liệu rằng cần phải dùng thuỷ quân để tăng cường. Ngài bèn lệnh cho các tướng Lê Ngân, Lê Bôi, Lê Văn An đem 70 chiến thuyền từ Nghệ An vượt biển vào tiếp ứng. Quân Lam Sơn hai đạo thuỷ bộ họp lại, vừa đánh giặc vừa chiêu mộ thêm lực lượng, cùng nhân dân vây bức, dụ hàng các đồn trại quân Minh ở các châu huyện.

Khí thế của quân Lam Sơn cùng với sự hỗ trợ nhiệt tình của nhân dân khiến cho quân Minh không thể địch nổi, rút vào hai thành Tân Bình, Thuận Hoá tử thủ. Trần Nguyên Hãn vẫn theo sách lược chung, chia quân vây bức thành trì mà không công phá, giữ gìn lực lượng, chiêu dụ nhân dân. Trên thực tế đất đai hai xứ Tân Bình, Thuận Hoá đã thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh ở trong thành đã hoàn toàn bị cô lập, chỉ còn trông cậy vào lương thực, khí giới đã tích luỹ từ trước mà cầm cự lay lắt qua ngày.

Chẳng những chiếm được đất đai, lực lượng quân Lam Sơn lại còn được dịp phát triển vượt bậc về số lượng. Trần Nguyên Hãn với tài năng và uy tín của mình đã tuyển chọn thêm được hàng vạn quân sung vào đội ngũ, khiến tương quan lực lượng tổng thể giữa quân Lam Sơn và quân Minh có một chuyển biến lớn. Cho đến tháng 10.1425, một dải giang sơn từ Thanh Hoá đến Thuận Hoá đã thuộc quyền làm chủ của nghĩa quân Lam Sơn. Ngoài ra mở rộng vùng giải phóng, phát triển thêm thế lực thì việc này còn giúp quân Lam Sơn tránh khỏi mối lo “nội cố”, tức bị trong đánh ra, ngoài đánh vào, phải tiến hành phòng thủ các hai hướng bắc và nam. Với thế trận mới, một lực lượng cơ động chiến lược lớn của quân ta được rảnh tay mà dồn sức tạo thành những mũi tiến công lớn.

Theo như sách lược mà Nguyễn Chích đã đề ra từ trước, quân Lam Sơn sẽ tiến đánh Nghệ An rồi dùng nhân tài vật lực xứ này mà quay ra đánh Đông Quan. Nhưng trong quá trình thực hiện, kế hoạch chung của nghĩa quân đã thay đổi theo tình hình thực tế. Quân ta chẳng những đánh chiếm đất đai Nghệ An mà còn đánh cả Diễn Châu, Thanh Hoá và tiến đánh sâu vào nam, kiểm soát một vùng rộng lớn. Với nhân tài, vật lực các xứ đã chiếm được, quân Lam Sơn đủ sức vừa tiến hành bao vây chặt quân Minh ở các thành trì vừa có thể chuyển sang giai đoạn mới, đó là bắt đầu kế hoạch bắc tiến để thu phục Đông Quan, khôi phục lại toàn bộ giang sơn Đại Việt.Với những chiến công vang dội liên tiếp, các tướng đồng loạt suy tôn Bình Định vương Lê Lợi là Đại Thiên Hành Hoá (tức người thay trời làm việc giáo hoá). Từ đó về sau các mệnh lệnh, thư từ Lê Lợi đều dùng danh hiệu này để xưng.

Bấy giờ, tuy quân dân ta thắng trận giòn giã, nhưng quốc lực nước Minh vẫn đang trong lúc cường thịnh nhất. Mặc dù nước Minh bị phân tán lực lượng khi phải đối phó với người Mông Cổ, nhưng nếu vua tôi Minh triều hạ quyết tâm thì vẫn có thể điều động hàng chục vạn quân để tăng viện cho quân Minh ở Đại Việt. Lê Lợi biết rằng cuộc chiến đấu vẫn còn nhiều gian nan, nên muốn dùng biện pháp chính trị, ngoại giao để phối hợp với quân sự. Để tiện cho việc giao thiệp với nước Minh và góp phần phân hoá nội bộ Minh triều, Lê Lợi đã cho rước một người tự xưng là con cháu họ Trần tên là Trần Cao, từ châu Ngọc Ma về để tôn làm vua.

Thực chất, Trần Cao chỉ là vua bù nhìn để góp phần khiến cho phe chủ chiến ở triều đình nước Minh hết đường viện cớ xua quân tăng viện, là mất đi sự “chính danh” giả hiệu mà vua tôi nước Minh vẫn rêu rao và tự huyễn hoặc chính mình. Còn trên thực tế, Lê Lợi vẫn là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và dùng uy tín của mình để kêu gọi toàn dân đánh đuổi quân Minh.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-Q5mnVU4MiE4/XoiqgKkkF0I/AAAAAAACN8c/PwB6nWlEFcoTC4sMjNahpzR_LvJPsghAgCLcBGAsYHQ/s640/118..jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 119

VUA MINH NÓI LỜI MỊ DÂN
LÊ LỢI TUNG 4 ĐẠO QUÂN BẮC TIẾN


Phong trào khởi nghĩa Lam Sơn từ cuối năm 1425 trở đi đã thực sự phát triển thành phong trào mang tính toàn dân, toàn quốc. Với việc nắm giữ vùng đất từ Thanh Hoá trở vào nam, vây bức quân Minh trong các thành trì, quân Lam Sơn đã khiến cho Minh triều hoàn toàn thay đổi thái độ đối với nhân dân ta. Trước đây, quân Minh diệt nước Đại Ngu, rồi đặt thành quận huyện. Nhưng người Minh thực sự chưa bao giờ coi dân Việt là “người một nhà”. Các chính sách đối với dân ta rất hà khắc và bất công, nhằm mục đích kiểm soát toàn bộ dân chúng và bóc lột ở mức độ cao nhất để làm giàu cho đế chế Minh.

Mỗi khi có phong trào phản kháng bùng lên mạnh mẽ, Minh triều bên cạnh việc đàn áp cũng tìm cách chiêu dụ quân dân ta, nhưng thường chỉ là những lời hứa hão huyền và khi việc đánh dẹp được thành công rồi thì chúng lại lộ mặt là quân giặc bạo ngược. Bây giờ khi quân Lam Sơn đang chiếm thế thượng phong trên chiến trường và Minh triều tạm thời chưa thống nhất được kế hoạch đưa quân tăng viện để phản kích, một lần nữa những lời lẽ chiêu dụ đầy vẻ nhân đức lại được ban ra từ một vị vua nước Minh. Đầu năm 1426, vua Minh Tuyên Tông xuống chiếu cho quan lại và dân chúng nước ta, chiêu an và thông báo thay đổi nhiều chính sách thuế khoá, lao dịch nặng nề trước đây hòng làm giảm đi sự chống đối của nhân dân ta. Chiếu viết rằng :

“Đạo lý thống trị cốt ở yên dân, lòng nhân xót thương, cũng nên tha tội. Giao Chỉ từ khi sáp
nhập vào bản đồ dến nay đã hai mươi năm, nhiều lần gây chuyện phản nghịch, phải huy động tới quân của nhà vua. Nhưng ghét chết, thích sống, lòng người không ai khác ai, lội nước vào lửa, bản tâm có ai muốn thế. Xét kỹ duyên do, đều bởi người có chức trách đã không biết cách vỗ về, lại còn cướp bóc không hề biết chán. Tình cảnh kẻ dưới không thấu lên trên, ơn trạch người trên không thấm xuống dưới.

Đến nỗi dân chúng khốn khổ, nảy lòng nghi ngờ, trốn vào núi rừng, họp nhau làm loạn. Xét thực tình đều là do bất đắc dĩ, nên xử tội cũng đáng được xót thương. Vậy ban ơn mưa móc, cho đều được thấm nhuần. Những quan lại và quân dân Giao Chỉ mắc tội phản nghịch và các tội khác, đã bị phát giác hay chưa bị phát giác, đã được xét xử hay chưa được xét xử, kể từ ngày chiếu thư này ban ra, không kể là tội lớn hay tội nhỏ, đều tha cho cả. Quân và dân đất Giao Chỉ, ngoài việc nộp tiền thuế và lương thực ra, các khoản trưng thu khác, cùng những việc đổi lấy vàng bạc, tiền đồng, muối, sắt, hương liệu, thuế cá... đều lập tức đình chỉ cả, cho phép được trao đổi ở trong hạt với nhau, quan phủ kkông được cấm.”(theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)

Lần xuống chiếu này của vua Minh Tuyên Tông khác với những chiếu chỉ trước kia của Minh Thành Tổ Chu Đệ là việc gần như bãi bỏ hoàn toàn những chính sách bóc lột, nô dịch hà khắc mà nước Minh đã áp đặt lên lãnh thổ Đại Việt. Mặc dù vậy, khó mà khẳng định rằng vua Minh sẽ thực sự thi hành chính sách mới nhẹ nhàng hơn đối với nhân dân Việt một khi kiểm soát lại được tình hình. Và tất nhiên là nó cũng không được quân dân Việt tin tưởng, vì những việc làm trước đây của quân Minh với sự chỉ huy của những tướng lĩnh tàn bạo như Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Trí, Phương Chính … để khiến nhân dân quá chán ghét. Hơn nữa, ngoài vấn đề lợi ích còn có vấn đề dân tộc, quốc gia. Người Việt đơn giản là muốn làm dân của một đất nước Đại Việt độc lập, tự chủ. Lòng nhớ nước cũ và sự căm thù quân giặc khiến cho hầu hết nhân dân hướng về quân Lam Sơn. Những lời lẽ của vua Minh đều vô dụng.

Mùa thu năm 1426, trải qua gần một năm củng cố các vùng giải phóng, tạo thế bao vây vững chắc quân Minh từ Thanh Hoá trở vào thì Bình Định vương Lê Lợi và tướng lĩnh Lam Sơn vẫn không chủ trương công phá các thành trì bị bao vây. Bởi thời kỳ này việc công thành là việc rất khó khăn, không chỉ đòi hỏi bên tấn công phải có quân đông hơn gấp mầy lần, được huấn luyện kỹ càng mà còn phải có đủ chiến cụ như xe thang, dã pháo, máy bắn đá … Trong khi đó thì thành trì giặc đều có trang bị súng lớn đặt trên thành để phòng thủ, và quân giặc vào thế phải tử thủ sẽ chiến đấu liều chết. Nếu tấn công vào các thành, quân ta phải chấp nhận thương vong lớn. Thay vì chọn cách thức đòi hỏi tiêu hao nhiều nhân mạng, bộ chỉ huy nghĩa quân đã nghĩ ra kế sách vẹn toàn hơn để từng bước vững chắc đi đến thắng lợi.

Lê Lợi nhận định rằng tinh binh của giặc đều tập trung cả ở thành Nghệ An, các xứ thuộc lộ Đông Đô (tức chỉ đồng bằng sông Hồng) đều trống rỗng. Vì vậy, ngài quyết định điều động bốn đạo quân bắc tiến.

Đạo thứ nhất gồm khoảng 3.000 quân và một thớt voi dưới sự chỉ huy của các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Trịnh Khả, Đỗ Bí … tiến đánh các trấn Thiên Quan, Quảng Oai, Gia Hưng, Tam Đái, Tuyên Quang, Quy Hoá, Đà Giang tức vùng tây bắc, với mục tiêu là uy hiếp thành Đông Quan từ mặt tây và án ngữ con đường từ Vân Nam tiến vào nước ta hòng chặn viện binh, quân lương của giặc từ trong nước Minh sang theo hướng này.

Đạo thứ hai có 2.000 quân và 1 thớt voi, dưới quyền chỉ huy của Lưu Nhân Chú, Bùi Bị, Lê Văn, Lê Ninh tiến đánh các xứ Thiên Trường, Tân Hưng và Kiến Xương (tức vùng Thái Bình, Nam Định ngày nay) để phòng khi quân tinh nhuệ của giặc ở thành Nghệ An thua trận rút ra bắc thì chặn đánh tiêu diệt, không cho chúng có cơ hội tổ chức lại lực lượng. Sau Lê Lợi phái thêm 3.000 quân xứ Thanh Hoá và 1 thớt voi ra tăng cường cho đạo quân này, nhận thêm nhiệm vụ đi vòng sang đông bắc tiến chiếm các xứ Khoái Châu, Thượng Hồng, Hạ Hồng, Bắc Giang, Lạng Giang tức là cả một vùng rộng lớn từ ven biển phía đông đồng bằng sông Hồng đến tận vùng biên giới phía bắc, nhằm mục đích bao vây quân Minh từ mặt đông và đón chặn viện binh, quân lương của giặc từ Quảng Tây sang.

Đạo thứ ba có 2.000 quân đều là tinh binh được tuyển chọn, giao cho các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí tiếp theo sau hai đạo quân trên tiến đánh thẳng vào Đông Quan, không cốt công phá thành trì ngay mà để phô trương thanh thế, phủ dụ nhân dân, thăm dò tình hình rồi mới liệu thế tiến thủ.

Ba đạo quân Lam Sơn bắc tiến có nhiệm vụ khác nhau, cách thức thực hiện nhiệm vụ cũng có sự khác biệt những đều có đường lối chung là dựa vào nhân dân mà chiến đấu, thực hiện lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Nghĩa quân Lam Sơn đã thực hiện một phương thức chiến tranh rất mới mẽ và đặc biệt xét tại thời kỳ này. Trong phương thức này, một đội quân không chỉ đóng vai trò chiến đấu, mà còn thêm vai trò tuyên truyền, phát động toàn dân cùng chiến đấu.Tất nhiên mỗi đạo quân chỉ có khoảng vài ngàn người sẽ không thể giao chiến kiểu quy ước với quân Minh ở thành Đông Quan dù thất thế vẫn còn đến hàng vạn tên.

Quân ta thực hiện sách lược luồng sâu vào vùng chiếm đóng của giặc để phát động toàn dân cùng đứng lên đánh địch, kết nối với các lực lượng yêu nước, các anh hùng hào kiệt ở các xứ trước giờ vẫn còn đang phải chịu sự kìm toả của giặc hay phải ẩn thân nơi rừng núi, và kết nối với chính những nhóm vũ trang do chính phong trào Lam Sơn đã cài người đến ở trong những địa phương để thành lập bí mật từ trước. Trước khi ra quân, các tướng đều nhận quân lệnh không được tự tiện xâm phạm của dân. Quân đi đến đâu đều nghiêm chỉnh đội ngũ, gần gũi với nhân dân. Những nơi quân Lam Sơn đi qua chợ vẫn họp như thường ngày. Dân chúng đều mừng vui đem rượu thịt ra đón mừng và hưởng ứng hiệu lệnh của nghĩa quân Lam Sơn. Khí thế của quân và dân hoà lại làm một, càng trở nên to lớn và dữ dội khác thường.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-gRK_co2TCN8/Xo7R16FPbWI/AAAAAAACN9U/ivdfV-FLDFIrdXg1nwZshgb3EYrYGSDUQCLcBGAsYHQ/s640/119.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 120

NHÀ MINH TUNG 5 VẠN VIỆN BINH
LÊ LỢI CÓ 20 VẠN QUÂN CHỜ ĐẠI CHIẾN


Trong năm 1426, Bình Định vương Lê Lợi đã tiến thêm một bước trên con đường giải phóng đất nước bằng việc chia quân bắc tiến, phát động nhân dân cùng góp sức tiến công giặc ở khắp nơi. Để đối phó lại, Minh triều bên cạnh việc tiến hành mị dân cũng có những động thái quân sự cứng rắn. Chứng kiến sự bất lực của quan quân nước Minh trước sức tấn công của nghĩa quân Lam Sơn, vua Minh Tuyên Tông quyết định thay tướng và điều sang thêm những đạo quân tiếp viện lớn.

Về tổ chức, tháng 5.1426, Thành Sơn hầu Vương Thông được phong làm “Chinh Di tướng quân”, sang thay Trần Trí đảm nhiệm chức Tổng binh, nắm quyền chỉ huy toàn bộ quân Minh trên lãnh thổ nước ta. Đô đốc Mã Anh được cử làm tham tướng. Những tướng lĩnh cũ là Trần Trí, Phương Chính, Thái Phúc… phần nhiều đều bị vua Minh giáng chiếu hạch tội và trách mắng thậm tệ, sung làm Sự quan – chức quan dành cho những kẻ đang có tội nhưng tạm tha, cho tại chức để lập công chuộc tội.

Về thành phần lực lượng, 5 vạn quân Minh được điều động theo Tổng binh Vương Thông để sang cứu viện cho bọn Trần Trí. Để phối hợp với Vương Thông, vua Minh Tuyên Tông còn lệnh cho 1 vạn quân Minh dưới quyền tướng Vương An Lão từ Vân Nam tiến sang. Trước kia bọn tướng Minh chia nguỵ binh các xứ đi làm đồn điền để tích trữ lương thực. Nay thế bức bách, Trần Trí cho gom tất cả quân đi làm đồn điền lại, kể cũng hàng vạn, tất cả đều tập trung về thành Đông Quan. Trần Trí còn ráo riết bắt lính nguỵ tại một số vùng quân Minh còn đang chiếm đóng, sắp xếp lẫn với bọn lính người Minh để quản thúc và bắt phải chiến đấu cho chúng.

Trước đây, Trần Trí và bọn Lý An, Phương Chính bị vây bức tại thành Nghệ An. Trần Trí phải khốn đốn lắm mới tháo chạy được về bắc, để Lý An, Phương Chính lại tử thủ thành Nghệ An. Bình Định vương Lê Lợi không đánh thành mà dồn quân bao vây. Đến nay Đông Quan nguy cấp, Trí cùng quẫn sai người giỏi võ nghệ đem mật thư lẻn vào được thành Nghệ An, lệnh cho Lý An, Phương Chính “bỏ thành Nghệ An về để cứu đất căn bản”. Mọi cố gắng có giặc Minh từ tướng đến vua là có được số quân đông để bổ sung cho số bị hao hụt trong các trận đánh trước đó nhằm đối phó với sự lớn mạnh vượt bậc của nghĩa quân Lam Sơn.

Thế nhưng một lần nữa quân Minh đã không có được lợi thế mà chúng muốn. Hiệu lệnh của Bình Định vương truyền đến các xứ, trai tráng nước Việt nô nức tình nguyện sung vào đội quân chính nghĩa để diệt giặc. Chẳng những thế, dân chúng còn tự trang bị khí giới, lương thực mà cung cấp cho nghĩa quân Lam Sơn. Ngoài ra, tại các địa phương ở vùng Kinh lộ mặc dù quân Lam Sơn chưa chiếm được nhưng đã cài người tập họp lực lượng bí mật chờ sẵn trước. Đến khi quân ta đi tuần ra bắc, những đạo quân mật phục này nhanh chóng họp vào hàng ngũ. Bởi thế mà từ chỗ mỗi cánh quân chỉ có vài ngàn quân, quân Lam Sơn bắc tiến nhanh chóng tập họp được lực lượng mỗi cánh quân đông hàng vạn người.

Tổng lực lượng quân Lam Sơn từ bắc chí nam đến mùa thu năm 1426 đã đông trên dưới 20 vạn quân, và vẫn trên đà phát triển về cả quân số lẫn khí giới, kinh nghiệm chiến đấu. Vì là đội quân hiệp nghĩa cứu dân, nghĩa quân Lam Sơn hầu như không cần tốn hao tiền bạc mộ quân, không cần đem chức tước ra cầu hiền mà người người tự đến gia nhập với tinh thần không vụ lợi. Quân Minh thực sự đã phải đối đầu với sức mạnh tổng hợp của cả một dân tộc đang trỗi dậy khẳng định lại sự tự cường của mình.

Cuối tháng 9.1426, Lý Triện dẫn quân tiến gần Đông Quan. Trần Trí sợ quân ta có dịp hiệu triệu toàn dân như những gì đã diễn ra tại Nghệ An, bất đắc dĩ phải thúc quân xuất thành hòng đánh phủ đầu quân ta. Lý Triện cùng các tướng Trịnh Khả, Đỗ Bí đặt quân mai phục tại cầu Ninh Kiều, thuộc Ứng Thiên (Ứng Hoà, Hà Nội ngày nay) đón đánh. Quân ta mưu trí chờ lúc quân Minh đang qua cầu thì đổ ra đánh. Cầu hẹp, quân giặc không tiến được, lớp rơi xuống sông chết, lớp bị giết. Trần Trí bại trận phải chạy ngược về thành Đông Quan cố thủ. Trận này quân Minh có 2.000 tên thiệt mạng. Kế hoạch đánh phủ đầu của Trần Trí thất bại thảm bại, quân ta thuận đà tiến ra, khí thế càng dâng cao.

Một ngày đầu tháng 10.1426, khi các đạo quân Lam Sơn đang đi tuần quanh Đông Đô thì tại thành Nghệ An, tướng Minh là Phương Chính cùng Lý An thình lình mở cổng thành tung hàng vạn quân đánh mạnh phá vòng vây để mở đường thoát ra biển. Trong thành Nghệ An chỉ để lại Thái Phúc cùng một ít quân trấn giữ. Quân Lam Sơn vốn đã xếp đặt sẵn phục binh các nẻo, chỉ đợi giặc kéo ra là đón đánh. Bình Định vương Lê Lợi liền tức khắc dồn quân bao vây đánh diệt quân giặc. Tuy nhiên quân Minh đánh liều chết, lại có thuyền lớn nên phá được vòng vây.

Bình Định vương Lê Lợi một mặt để các tướng Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Thận, Phạm Bôi, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng ở lại tiếp tục cầm quân vây chặt Thái Phúc tại thành Nghệ An, còn ngài thì đích thân đốc suất quân thuỷ bộ rầm rộ truy kích theo Phương Chính và Lý An, buộc giặc phải trả giá đắt trên mỗi bước đường tháo chạy. Đến Thanh Hoá, thuyền quân Minh sau phen nguy khốn rốt cuộc thoát được ra biển, nhắm theo hướng bắc mà chèo nhanh, định tiến vào sông Đáy ngược dòng về thành Đông Quan. Bấy giờ quân ta có ít thuyền lớn, không thể đuổi theo được bọn Phương Chính. Nhưng ở các xứ ven biển từ Thanh Hoá trở ra, quân Lam Sơn đã làm chủ phần lớn. Bởi thế, hạm đội quân Minh dưới quyền Phương Chính, Lý An không có đường lên bờ, phải đi lòng vòng ngoài biển.

Bình Định vương Lê Lợi sau khi để xổng hàng vạn quân Minh ở thành Nghệ An, cho rằng mặt trận chính đã chuyển ra bắc, bèn dời dinh đóng tại Lỗi Giang xứ Thanh Hoá, chia quân đi tuần quanh thành Tây Đô. Tướng Minh là La Thông ở trong thành Tây Đô cùng quẫn vẫn nhất quyết đóng chặt cửa thành không ra hàng. Lê Lợi uỷ lạo tướng sĩ, thăm hỏi thân thuộc ở Thanh Hoá. Kỳ lão và nhân dân trong vùng đều tình nguyện sung quân diệt giặc. Bình Định vương kén người khoẻ mạnh, tuỳ tài lược cao thấp mà xếp vào đội ngũ. Ai nấy đều vui vẻ, nóng lòng chờ dịp lập công.

Cuối tháng 10.1426, hai đạo viện binh giặc đã rầm rộ kéo sang. Phía đông bắc, Vương Thông cũng Mã Anh dẫn 5 vạn quân từ Quảng Tây tiến theo đường Lạng Sơn xuống Đông Quan. Ở hướng tây bắc, Vương An Lão dẫn 1 vạn quân Vân Nam theo đường từ Đà Giang (Lai Châu ngày nay) tiến xuống đồng bằng.Tương quan lực lượng của hai bên bấy giờ có sự khác biệt lớn tại các mặt trận. Nếu như từ Thanh Hoá trở vào nam, quân Lam Sơn vẫn nắm ưu thế tuyệt đối cả về lực lượng lẫn thế trận thì ở mặt trận từ đồng bằng sông Hồng trở ra các vùng trung du và biên giới phía bắc, quân Minh đã có lực lượng đông mạnh hơn quân ta nhờ vào nỗ lực gom quân của Trần Trí và sự tăng viện từ nước Minh sang.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-CYuJmj17fNs/XpV9AnhGP8I/AAAAAAACN_I/QDwC_etDtUI8k_1YkE8p8qVT2c_t8da6gCLcBGAsYHQ/s640/120.jpg

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 121

DÙNG KẾ PHÁ “GIÁO DÀI NƠI NGÕ HẸP”
2 LẦN PHÁ QUÂN MINH
[/b]


Phong trào Lam Sơn tính đến nửa cuối năm 1426 đã phát triển rất mạnh mẽ, mang một tầm cỡ khác hoàn toàn so với thời gian còn hoạt động ở xứ Thanh Hoá, đủ khả năng huy động được sức mạnh toàn dân tộc ở mức độ cao nhất. Tuy nhiên, để đi đến chiến thắng cuối cùng vẫn còn một chặng đường đầy cam go, thử thách. Đế chế Minh thời vua Minh Tuyên Tông đang bước vào giai đoạn cực thịnh, không dễ dàng chấp nhận thất bại. Việc tung quân tiếp viện và thay tướng tại Đại Việt chứng tỏ quyết tâm đàn áp của vua tôi nước Minh. Tình hình chiến sự vẫn còn diễn biến rất phức tạp.

Mặc dù Bình Định vương Lê Lợi đã bố trí bao vây phần lớn lực lượng quân chủ lực nước Minh trước khi Vương Thông tiến sang dưới tại thành Nghệ An, nhưng với tinh thần liều chết phá vây, bọn Lý An, Phương Chính đã thoát được vòng vây để tháo chạy ra biển. Nghĩa quân Lam Sơn lúc này đã có quyền kiểm soát các vùng ven biển, cố gắng ngăn chặn không cho Lý An, Phương Chính lên bờ. Thế nhưng quân Lam Sơn không đủ quân số để có thể đóng chặn mọi ngả sông, lại càng không đủ thuyền bè để cơ động đuổi đánh hạm đội giặc. Lý An và Phương Chính cho thuyền chở quân đáng một vòng lớn trên biển để tránh quân Lam Sơn đóng dày ở vùng Trường Yên, Thiên Trường rồi rẽ vào vùng hạ lưu sông Hồng, lựa những chỗ mỏng yếu của quân ta, vừa đánh mở đường vừa tiến gấp ngày đêm, ruốt cuộc cũng về được Đông Quan hội quân với Trần Trí. Đương lúc ấy cũng là lúc Vương Thông rầm rộ tiến quân sang.

Mặc dù các cánh quân bắc tiến của nghĩa quân Lam Sơn đều đã chiêu mộ thêm nhiều quân lính, mỗi cánh quân đều có quân số đông đảo gấp mấy lần lúc mới tiến ra nhưng vẫn ít hơn tổng số quân Minh cả cũ lẫn mới cộng lại. Bấy giờ trong các cánh quân Lam Sơn thì cánh quân của các tướng Lý Triện, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Phạm Văn Xảo là rơi vào thế nguy cấp hơn cả vì cánh quân này hoạt động ở phía tây thành Đông Quan, có nguy cơ bị cả hai hướng quân Minh từ Vân Nam và từ Đông Quan cùng đánh kẹp lại. Để tránh nguy cơ đó, chư tướng bàn nhau chia quân đón đánh trước. Hai tướng Trịnh Khả, Phạm Văn Xảo dẫn quân đến lộ Tam Giang đón đánh 1 vạn quân Vân Nam dưới trướng của tướng Vương An Lão.
Vẫn theo chiến thuật quen thuộc, Trịnh Khả và Phạm Văn Xảo cho quân phục sẵn ở cầu Xa Lộc (thuộc Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay), chờ khi quân Minh đang qua cầu thì quân Lam Sơn đổ ra đánh mạnh. Tốp tiên phong quân Minh vừa qua cầu thì bị quân ta dồn lại bao vây, không thể dàn trận. Đám quân Minh theo sau bị dồn ứa lại trên cầu không tiến được, che lấn nhau rơi xuống sông. Kịch chiến một hồi, quân ta cả phá được giặc. Quân Minh bị giết và chết đuối hơn 1.000 quân, số còn lại tan chạy về thành Tam Giang để trú thân.

Trong lúc Trịnh Khả và Phạm Văn Xảo đánh bại quân của Vương An Lão thì hai tướng Lý Triện, Đỗ Bí vẫn còn lưu quân ở mặt tây thành Đông Quan. Trần Trí nhân cơ hội quân ta bị phân tán, sai Đô ty Vi Lượng mở cổng thành dẫn quân ra ra đánh. Lý Triện và Đỗ Bí cũng cho quân mai phục ngay đầu cầu Nhân Mục (thuộc Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội ngày nay) đón đánh quân Minh. Vi Lượng cậy quân đông hùng hổ tiến qua cầu.

Nhưng cầu hẹp khiến giặc phải xếp hàng dọc nối đuôi qua. Quân Lam Sơn ở bên đầu cầu bên này đều là những quân tinh nhuệ dày dặn trận mạc, bình tĩnh chờ giặc vừa qua cầu được vài tên thì quây lại đánh. Quân Minh dù có đông cũng không phát huy được ưu thế về quân số, rốt cuộc tan chạy. Vi Lượng không thoát kịp, bị quân ta bắt sống. Các tướng là Đào Sâm, Tiền Phụ, Triệu Trinh cùng khoảng 500 quân Minh bị giết tại trận. Quân ta đại thắng.

Cả hai trận Xa Lộc và Nhân Mục đều áp dụng cách đánh giống nhau là đón chặn giặc nơi đầu cầu. Sở dĩ tướng lĩnh Lam Sơn chuộng cách đánh này là vì quân Lam Sơn thường phải lấy ít địch nhiều, giỏi đánh nhau nơi đường hẹp. Trên đồng bằng rộng lớn, chỉ có ở chỗ cầu vượt sông là có đường hẹp, nơi mà quân ta có thể phát huy tối đa ưu thế về tinh thần chiến đấu và kỹ năng chiến đấu điêu luyện nhờ dày dặn trận mạc, đồng thời khiến cho ưu thế về quân số của đối phương trở nên khó phát huy.

Hai chiến thắng liên tiếp tiêu biểu cho chiến thuật lấy ít địch nhiều đã khiến nhuệ khí quân ta dâng cao. Nhưng chỉ mấy ngày sau, Vương Thông cùng 5 vạn viện binh, 5.000 ngựa chiến đã nhập thành Đông Quan. Quân Minh cả mới lẫn cũ cộng lại đông đến mười mấy vạn quân, trong số đó có nhiều quân chính quy tinh nhuệ của nước Minh. Vừa đến Đông Quan, Vương Thông đã lập tức thực hiện kế hoạch hành quân lớn. Đầu tháng 11.1426, Vương Thông sau khi để lại một số quân trấn thủ tại thành Đông Quan, thân đem 10 vạn quân chia làm 3 đạo rầm rộ mở chiến dịch tổng phản công.

Cánh thứ nhất do Phương Chính, Lý An chỉ huy tiến đóng dài từ cầu Yên Quyết (thuộc Yên Hoà, Cầu Giấy, Hà Nội ngày nay) đến cầu Sa Đôi (thuộc Đại Mỗ, Nam Từ Liêm, Hà Nội ngày nay), dọc theo sông Nhuệ (tức sông Đáy đoạn chảy qua Hà Nội ngày nay).
Cánh thứ hai do Sơn Thọ, Mã Kỳ chỉ huy đóng quân từ đầu cầu Nhân Mục đến cầu Thanh Oai (thuộc Bình Minh, Thanh Oai, Hà Nội ngày nay), dọc sông Đỗ Động.

Cánh thứ ba do Vương Thông trực tiếp thống lĩnh cùng với các tướng Trần Hiệp, Lý Lượngvượt qua cầu Tây Dương (tức Cầu Giấy, Từ Liêm, Hà Nội ngày nay) tiến đóng ở bến Cổ Sở (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội ngày nay), bắt cầu phao cho quân vượt sông Nhuệ.

Mục tiêu cụ thể đầu tiên của Vương Thông chính là tiêu diệt đạo nghĩa quân Lam Sơn hoạt động ở vùng tây Đông Quan do các tướng Lý Triện, Đỗ Bí chỉ huy, lúc bấy giờ đang đóng quân tại Ninh Kiều (Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay). Khí thế ban đầu của quân tướng dưới trướng Vương Thông mới sang rất đáng gờm. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Quân giặc dàn doanh trại liền nhau đến vài mươi dặm, cờ xí rợp đồng, giáo mác rực trời, tự cho là đánh một trận là bắt hết được quân ta”.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-G7RElACo-nI/XpnmFED7C-I/AAAAAAACOBA/TDj_Rn2npmUbj2O3SNzi6NTjYBjUrgcowCLcBGAsYHQ/s640/121.jpg

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 122

TRẬN TỐT ĐỘNG – CHÚC ĐỘNG
XÁC QUÂN MINH TẮC NGHẸN CẢ DÒNG SÔNG


Cuối năm 1426, chiến sự phía tây thành Đông Quan bắt đầu diễn ra những cuộc đụng độ lớn. Vương Thông đã dẫn 10 vạn quân chia làm ba đạo tiến đánh cánh quân của Lý Triện, Đỗ Bí đang đóng doanh tại Ninh Kiều (Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay). Sở dĩ Vương Thông không dồn quân vào một mũi tiến công duy nhất mà chia quân ra ba hướng là vì hắn muốn thực hiện bao vây, diệt gọn toàn bộ lực lượng quân Lam Sơn ở tây Đông Quan, từ đó tạo đà tiến công lớn cho quân Minh tiếp tục đánh toả ra. Tướng giặc đánh giá rằng quân của Trịnh Khả, Phạm Văn Xảo còn bận tay ở thành Tam Giang, Lý Triện và Đỗ Bí sẽ khó chống nổi đòn tổng lực của quân Minh.

Vương Thông đã đánh giá không chính xác về khả năng đánh tốc chiến của quân Lam Sơn. Tướng lĩnh của ta không chấp nhận ở yên một để cho địch vây khốn. Ngay lúc mà quân Minh đang triển khai thiết lập vòng vây thì Lý Triện, Đỗ Bí đã tung quân đánh trước. Ngày 5.11.1426, quân ta nhắm đánh vào cánh quân của Sơn Thọ, Mã Kỳ là cánh quân mỏng yếu nhất trong ba cánh bao vây của quân Minh. Lý Triện và Đỗ Bí đặt mai phục ở cánh đồng Cổ Lãm (thuộc Thanh Oai, Hà Nội ngày nay) rồi cho du binh đánh vào trại của Sơn Thọ, Mã Kỳ để nhử địch.

Thấy bóng quân Lam Sơn, Kỳ và Thọ thúc quân sáp lại đánh. Quân ta vờ tháo chạy dụ địch đuổi theo qua cầu Tam La (thuộc Hà Đông, Thanh Oai, Hà Nội ngày nay), là chỗ bùn lầy khó đi. Thình lình phục binh nổi lên cùng voi chiến xông ra đánh tạt ngang vào đội hình quân Minh, thả sức chém giết. Hơn 1.000 quân Minh trong chốc lát đã bỏ thây tại trận. Sơn Thọ và Mã Kỳ hết sức kinh sợ, dẫn quân chạy ngược về thành Đông Quan. Quân ta truy kích trên đoạn đường dài mấy mươi dặm, đến tận cầu Nhân Mục mới ngưng. Giặc phơi thây dọc đường rút chạy, thêm 500 tên bị bắt sống.

Vòng vây mà Vương Thông dự định tạo ra nhanh chóng bị chọc thủng một mảng lớn. Không dừng lại ở đó, Lý Triện và Đỗ Bí thừa thắng đem quân tiến đánh bọc hậu cánh quân của Phương Chính, Lý An hòng tạo ra sự tan rã dây chuyền trong hàng ngũ giặc. Thế nhưng Phương Chính và Lý An khi hay tin Sơn Thọ và Mã Kỳ bại trận đã kịp thu quân về thành. Quân Lam Sơn cũng thu quân vào lúc chậm tối. Lúc này Vương Thông với lực lượng hùng mạnh vẫn đóng tại Cổ Sở. Hay tin hai cánh quân đã bị quân Lam Sơn bức rút, Thông cho người vào thành lệnh cho toàn bộ số quân tướng đã rút về phải quay ngược trở ra, tập trung tại bến Cổ Sở ngay trong đêm 5.11.1426.

Từ kế hoạch bao vây, quân Minh chuyển sang kế hoạch dồn quân thành một khối để đánh vỗ mặt vào căn cứ Ninh Kiều. Hôm sau, ngày 6.11.1426, Lý Triện cùng Đỗ Bí lại đem tượng binh, bộ binh đến đầu cầu Cổ Sở khiêu chiến. Vương Thông đã có phòng bị trước, sai quân đào bẫy gài chông sắt, đan tra làm lá chắn. Khi tượng binh Lam Sơn tiến đánh, quân Minh vờ vứt lá chắn bỏ chạy. Tượng binh quân ta thừa thế xông tới, giẫm phải chông sắt, thế quân khự lại. Quân Minh dùng súng và hoả tiễn bắn ra, quân ta chết nhiều, phải rút lui.

Vương Thông thắng được một trận, bèn thúc toàn quân đánh tràn. Lý Triện, Đỗ Bí liệu thế binh ít không chống nổi, cho đốt bỏ doanh trại ở Ninh Kiều, lui quân về giữ Cao Bộ (xã Trung Hoà, Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay), đồng thời cho người cấp báo với cánh quân của Đinh Lễ, Nguyễn Xí, Trương Chiến, Lê Hối đang đóng ở Tham Đàm (Thanh Trì, Hà Nội ngày nay), đề nghị đem quân ứng cứu. Quân của Đinh Lễ, Nguyễn Xí nắm giữ là đạo quân tinh nhuệ nhất trong các đạo quân bắc tiến, trong đó có cả đội Thiết đột đặc biệt tinh nhuệ cũng được Bình Định vương Lê Lợi gởi gắm cho Lễ và Xí, hai chiến tướng rất được Lê Lợi tín nhiệm. Nhận được tin cấp báo, Đinh Lễ, Nguyễn Xí cùng các tướng tức tốc cho quân lên đường tiếp viện, hội quân ở Cao Bộ. Cuộc hành quân diễn ra bí mật trong đêm, giặc chưa dò biết được.

Trong khi đó, Vương Thông dẫn quân đánh vào doanh trại quân ta ở Ninh Kiều thì chỉ thấy một nơi trống vắng, trại thì đều đã cháy ra tro. Quân Minh tạm đóng tại Ninh Kiều, dò tin tức quân ta. Biết được Lý Triện và Đỗ Bí đã đóng giữ Cao Bộ, Vương Thông bàn với các tướng Minh chia quân làm hai ngả đường tiến đánh. Đạo chính binh do Vương Thông chỉ huy đi theo đường cái từ Ninh Kiều qua Tốt Động, Chúc Động (thuộc Chúc Sơn, Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay) đánh thẳng vào mặt phía động Cao Bộ. Đạo kỳ binh theo đường nhỏ từ Chúc Động đi vòng lên mặt bắc Cao Bộ, đem theo súng lớn, định đặt súng bắn vào phía sau quân Lam Sơn khi quân ta phải đối trận với cánh quân chính của Vương Thông.

Tướng lĩnh quân Lam Sơn biết rằng trên đường tiến quân giặc Minh tất phải đi qua Tốt Động, Chúc Động nên đem quân tinh nhuệ mai phục sẵn để đợi. Nghĩa quân lại bắt được gián điệp của quân Minh, tra khảo ra được kế hoạch của giặc định đặt súng bắn vào phía sau quân ta, hễ nghe tiếng pháo thì các hướng quân Minh sẽ cùng tiến đánh mạnh. Lý Triện, Đinh Lễ bèn bàn với các tướng tương kế tựu kế, lệnh cho các quân mai phục khi nghe tiếng súng thì vẫn nằm im để chờ giặc tiến vào. Một đêm mưa gió tháng 11.1426, hai đạo quân Minh từ hai ngả tiến đánh Cao Bộ. Đạo kỳ binh giặc tiến qua Chúc Động, chính binh của Vương Thông thì gần đến Tốt Động.

Khoảng canh năm, quân ta chủ động cho phát pháo. Vương Thông tưởng đạo kỳ binh đã tiến vào thuận lợi, thúc quân tiến gấp để phối hợp. Chờ giặc lọt vào trận địa mai phục ở Tốt Động, phục binh Lam Sơn bốn bề nổi lên đánh quyết tử. Trời mưa khiến đường xá lầy lội, người ngựa quân Minh bị mắc lầy, trước sau không ứng cứu được nhau. Quân Lam Sơn thừa thế chém giết thả cửa, tượng voi từ Cao Bộ xông tới băm nát đội hình hành quân của giặc. Ở phía Chúc Động, đạo kỳ binh cũng trúng mai phục và thiệt hại nặng nề. Vương Thông hết đường chống đỡ, cùng quân tướng mạnh ai nấy chạy, giẫm đạp cả lên đồng đội. Đến Ninh Kiều, giặc tranh nhau qua cầu, rơi xuống sông chết đuối nhiều vô kể. Binh bộ thượng thư nước Minh là Trần Hiệp, nội quan Lý Lượng, đô chỉ huy Lý Đằng đều chết trong đám loạn quân. Vương Thông cũng bị thương, may sao thoát được. Các tướng Minh khác là Mã Kỳ, Mã Anh, Sơn Thọ… ai nấy đều cắm đầu chạy thục mạng về thành Đông Quan, đóng cửa thành cố thủ.

Kết thúc trận chiến, số quân Minh bị quân Lam Sơn giết chết và chết vì giẫm đạp lên nhau lên đến hơn 5 vạn tên, chưa kể số giặc bị chết đuối mà theo các sử sách nước ta ghi lại một cách hình tượng hoá là “Giặc chết đuối rất nhiều, nước sông ở Ninh Kiều do vậy mà tắc nghẽn”(theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư). Ngoài ra, chừng 1 vạn quân Minh bị bắt sống. Khí giới, xe cộ, lương thảo, lừa ngựa, vàng bạc, quân nhu mà quân Minh để lại dọc đường nhiều không kể xiết, đều rơi vào tay quân Lam Sơn. Thế lực quân ta sau trận đại thắng đã áp đảo quân Minh. Trên thực tế, Vương Thông cùng đạo viện binh của hắn đã bị đánh tan tác. Trận chiến tại Ninh Kiều (hay còn gọi là trận Tốt Động – Chúc Động) là một trong những trận đại thắng nổi tiếng trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, tiêu biểu cho tinh thần “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”. Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi đã mô tả về trận này với âm hưởng hùng tráng:

Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong

Tạm dịch:
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-9w_IRUSlS48/Xq2xtWHAj_I/AAAAAAACOEk/W30dz3R0h3Q604oa2XfAOaK36uixsFFGQCLcBGAsYHQ/s640/122.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 123

TRONG CƠN CÙNG QUẪN
GIẶC MINH PHÁ HUỶ 2 BẢO VẬT CỦA ĐẠI VIỆT


Chiến thắng Ninh Kiều (trận Tốt Động – Chúc Động) đã đánh tan đạo viện binh của Vương Thông, mở ra một cơ hội lớn cho nghĩa quân Lam Sơn tiếp tục đà tiến công trên toàn bộ lãnh thổ Đại Việt. Đinh Lễ cùng Lý Triện thừa thắng kéo quân đến trước chân thành Đông Quan vây bức, binh uy vang lừng như sấm dậy.

Từ trước trận chiến này, Bình Định vương Lê Lợi vẫn đóng ở Thanh Hoá là quãng giữa các mặt trận để tiện điều quân trên các hướng tiến công và bao vây, đồng thời củng cố những vùng hậu phương. Khi hay tin quân ta đại thắng, Vương bèn đem đại quân chia hai đường thuỷ bộ tiến gấp ra bắc, đóng đại doanh ở Thanh Đàm. Chư tướng đều đến đón mừng.

Khi quân dân ta nức lòng vì trận đại thắng thì Vương Thông đã tranh thủ sai người đem thư cấp báo về triều đình nước Minh, xin thêm quân tiếp viện. Vua tôi nước Minh dù rất bối rối trước tin bại trận, nhưng phần đông vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược. Các quan tâu lên vua Minh Tuyên Tông rằng: “Từ khi Hoàng Phúc bị triệu về, trung quan Mã Kỳ sang thay khích thành biến loạn ở Giao Chỉ. Xin lại cho Hoàng Phúc sang nhậm chức cũ, thì loạn ở Giao Chỉ tự nhiên yên được.” (!?) (theo Việt Sử Tiêu Án – Ngô Thì Sĩ)

Sở dĩ có lời tâu này là vì Hoàng Phúc khi làm quan ở nước ta chỉ chuyên tâm lo việc dân sự, không gây nhiều thù oán, tương đối được lòng dân. Các quan lại nước Minh hy vọng rằng Hoàng Phúc quay lại nước ta sẽ giúp hoá giải phần nào lòng căm thù của nhân dân. Thế nhưng thực sự đó chỉ là những ý nghĩ viển vông do thiếu thông tin thực tế. Hoàng Phúc dẫu ôn hoà nhưng kẻ sĩ trong nước ta đều biết hắn là người chuyên lo việc xoá bỏ tín ngưỡng, văn hoá truyền thống của người Việt để thay thế bằng văn hoá phương bắc. Sự ôn hoà của Hoàng Phúc cũng không thể bù được sự tham tàn của quan tướng nước Minh. Chiêu bài vừa đánh vừa xoa của giặc vốn chỉ có tác dụng lúc ban đầu khi mà nhân dân ta chưa nhận rõ bản chất. Minh Tuyên Tông nghe theo lời tâu của các quan viên,  bàn kế hoạch điều động thêm quân tiếp viện mới. Vua Minh định bụng rằng trước tiên cho quân đông mạnh đánh bại quân Lam Sơn, rồi sẽ cho Hoàng Phúc lo việc thu phục lòng dân.

Lại nói tình thế chiến trường lúc bấy giờ, cuối tháng 11.1426 Bình Định vương dời đại doanh đến đóng ở Tây Phù Liệt (thuộc Thanh Trì, Hà Nội ngày nay), đốc suất quân thuỷ bộ vây thành Đông Quan càng chặt. Lúc này Vương Thông vẫn còn một số trại đóng ngoài tường thành làm nhiệm vụ tiền tiêu, với hệ thống hoả pháo đặt trên thành luỹ, nối liền từ nội thành ra căn cứ thuỷ quân ở Đông Bộ Đầu (thuộc phường Nguyễn Trung Trực, Ba Đình, Hà Nội ngày nay) khá mạnh. Hệ thống phòng thủ thuỷ bộ liên hoàn này là niềm hy vọng cho quân Minh cầm cự lâu dài với quân Lam Sơn. Về phía ta, bộ binh, tượng binh đều mạnh nhưng vẫn có điểm yếu là súng ống, thuyền bè ít và kém hơn quân Minh. Là một đội quân đi lên từ gian khổ, nghĩa quân Lam Sơn chưa thể xây dựng một hạm đội hùng mạnh trong thời gian ngắn được.

Để đánh phá thuỷ quân của giặc, đầu não Lam Sơn đã bày ra một kế hoạch phối hợp liên hoàn giữa thuỷ và bộ. Đầu tiên, cánh thuỷ quân với hơn 100 chiến thuyền dưới sự chỉ huy của các tướng Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị được lệnh ngược dòng sông Lũng Giang (tức sông Đáy ngày nay) ra cửa Hát Môn (thuộc Phúc Thọ, Hà Nội ngày nay), là chỗ giao nhau giữa sông Lũng Giang và sông Lô (tức sông Hồng ngày nay). Tại đây, Trần Nguyên Hãn và Bùi Bị sẽ thống lĩnh thuỷ quân Lam Sơn xuôi dòng xuống đánh căn cứ Đông Bộ Đầu từ hướng đông bắc.

Cánh quân thứ hai do Đinh Lễ chỉ huy với khoảng 1 vạn bộ binh lặng lẽ tiến đóng ở cầu Tây Dương (Cầu Giấy, Hà Nội ngày nay), chuẩn bị phối hợp tấn công thành Đông Quan từ phía tây. Bình Định vương Lê Lợi thì cầm quân chủ lực và tượng binh tiến đánh cửa nam thành Đại La cũ (cổng thành cũ nằm bên ngoài thành chính Đông Quan). Nửa đêm 23.11.1426, quân Lam Sơn đồng loạt tấn công từ khắp các hướng, phóng hoả đốt các nhà dân bỏ trống quanh các đồn trại quân Minh để bao vây giặc bằng lửa. Phương Chính phụ trách cầm quân Minh ở các đồn ngoài không thể nào chống nổi thế mạnh áp đảo của nghĩa quân, thương vong rất nhiều. Binh tướng Minh hoảng loạn trước sức tấn công của quân ta, tranh nhau chạy vào thành trong, xác chết nằm chồng lên nhau.

Khi quân ở các đồn đã rút hết vào thành, căn cứ Đông Bộ Đầu của thuỷ quân Minh hoàn toàn bị cô lập. Thuỷ quân của Trần Nguyên Hãn và Bùi Bị thuận dòng đánh xuống, phối hợp với bộ binh quân ta đánh kẹp lại, diệt gọn thuỷ quân Minh. Kết thúc trận đánh, quân Lam Sơn thu được hơn 100 chiến thuyền, khí giới, nghi trượng nhiều vô kể. Những nhân dân Đông Quan trước đây bị buộc theo giặc nay được giải phóng hoàn toàn, đều vui vẻ theo về với Bình Định vương Lê Lợi.

Vương Thông bị vây bức trong nội thành vẫn chỉ huy quân tướng cố sức chống giữ mãnh liệt. Nhưng quân Minh đã bị cô lập, lại chịu sự tấn công dồn dập của quân Lam Sơn nên dần hết khí giới, đạn dược. Trong tình thế nguy khốn, Vương Thông đã hạ lệnh cho nấu chảy chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh - hai trong bốn thứ bảo vật được tôn vinh là An Nam Tứ Đại Khí để đúc chiến xa và súng đạn. Lại thêm một sự mất mát về văn hoá mà dân tộc ta phải chịu do cuộc chiến tranh đem lại. Quân Minh ở thành Đông Quan ngày đêm tăng cường đào hào đắp luỹ, gia cố tường thành. Vì lương thực trong thành còn dồi dào và tường thành vững chắc, nên giặc còn hy vọng cố thủ đến chờ viện binh sang cứu.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-_4cmXM5g5tg/Xq8KIMn9H6I/AAAAAAACOEs/BTrC7RWiCVAKJKWWCBO0Zol6JD-Xgh97wCLcBGAsYHQ/s640/123.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 124

NGUYỄN TRÃI DÙNG BÚT LỰC HƠN 10 VẠN BINH
QUÂN MINH BUÔNG VŨ KHÍ


Trái với kỳ vọng của vua tôi nước Minh, từ khi Tổng binh Vương Thông mang quân sang nước ta, thất bại cứ nối tiếp thất bại. Chẳng những không thể đảo ngược tình thế, Vương Thông cũng giống như người tiền nhiệm là Trần Trí càng lút sâu vào thế phòng ngự bị động, bị vây khốn trong thành Đông Quan. Quân Lam Sơn dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bình Định vương Lê Lợi đã bao vây giặc khắp cả bốn bề.

Mùa đông năm 1426 tại dinh Tây Phù Liệt nơi Lê Lợi đóng quân, các hào kiệt, quân dân, thổ hào, tù trưởng các xứ kéo nhau đến bái kiến đông nghịt. Lê Lợi đều lấy lễ tiếp đón nồng nhiệt, rồi tuỳ tài mà cất nhắc chức vị lớn hay nhỏ. Dù chưa sạch bóng quân thù, nhưng quân Lam Sơn đã nắm quyền kiểm soát hầu hết lãnh thổ cả nước. Lê Lợi bắt đầu tiến hành những bước để kiến lập chính quyền mới là định chức tước hai ban văn võ, quy định luật lệ, xếp đặt lại các phủ trấn, đặt các quan tuần kiểm ở các cửa biển trọng yếu để khám xét người qua lại, lùng bắt những kẻ đưa tin cho giặc. Những kẻ cộng tác với quân Minh gây tội ác với nhân dân bị đem ra xét xử.

Về phía giặc, ngoài thành Đông Quan thì vẫn còn 12 thành trì kiên cố khác mà quân Minh đang chiếm giữ cũng ở trong tình thế bị vây bức, cô lập là Thuận Hoá, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Tây Đô, Cổ Lộng, Điêu Diêu, Tam Giang, Thị Cầu, Xương Giang, Chí Linh, Khâu Ôn. Quân Minh triệt để dựa vào ưu thế của thành cao, hào sâu để cầm cự với quân dân ta. Lúc này quân đội Lam Sơn đã đông đến hơn 30 vạn quân và được sự hỗ trợ nhiệt thành của nhân dân, nhưng bộ chỉ huy Lam Sơn vẫn đề cao chiến lược bao vây, chiêu dụ hơn là quyết công phá các thành. Bởi nếu công thành quân ta sẽ phải chấp nhận thương vong lớn.

Lê Lợi vẫn mong muốn một chiến thắng trọn vẹn nhất và còn phải để giành lực lượng đề phòng nước Minh có thể tung thêm những lực lượng mới để tăng viện. Thế nhưng Vương Thông sau khi liên tiếp đại bại nhận thấy rằng tình thế khó mà thay đổi, và việc bại vong của quân Minh chỉ còn là vấn đề thời gian. Một khi khí giới, lương thảo trong thành đã cạn, quân Minh chỉ còn đường chết đói hoặc bị giết.

Trước tình thế đó, Vương Thông đã phải tính đường nghị hoà. Thông phái thái giám Sơn Thọ đem thư đến cho Lê Lợi, xin được hoà hoãn để rút binh về nước. Nhận được thư xin hoà, Lê Lợi nói: “Không đánh mà khuất được quân của người, ấy là mưu hay nhất trong các mưu hay!” (theo Lam Sơn Thực Lục). Việc giảng hoà và thư từ qua lại với quân Minh được Lê Lợi giao phó cho Hàm lâm viện thừa chỉ Nguyễn Trãi lo liệu. Nguyễn Trãi biên thư trả lời Vương Thông rằng:

“Tôi nghe, trời đất đối với muôn vật, nổi sấm sét mà ý hiếu sinh vẫn có ở trong; cha mẹ đối với các con, đánh roi vọt mà ơn dưỡng dục vẫn có ở đây. Nay vâng được thư của ngài cho tôi được tự tân, hân hạnh khôn xiết, thật không khác đức lớn của trời đất cha mẹ, dẫu có tan xương, nát thịt, cũng không đủ báo đền.

Song nếu ngài thực có lòng thương xót dân chúng, thì nên sai đầu mục đến các thành Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, ra lệnh cho họ đem quân về, tôi sẽ lập tức sắm đủ phương vật tiến cống, cúi xin ngài sai quan cùng đi với tử đệ thân tín của tôi để đến đầu hàng phục tội. Cầu cống đường sá thì tôi xin nhận sửa đắp, không phải phiền đến quan quân. Giá được người nhận lời, không những sinh linh nước tôi được khỏi lầm than, mà binh sĩ Trung Quốc cũng khỏi nỗi khổ gươm giáo vậy.” (theo Quân Trung Từ Mệnh Tập)

Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết thư cho Vương Thông, tuy lời lẽ nhún nhường mà mưu kế sâu xa. Lúc bấy giờ ở một số thành trì, tướng lĩnh nước Minh giữ thành vẫn kiên trì tử thủ. Nguyễn Trãi muốn nhân việc hoà nghị để mượn lời của Vương Thông dụ hàng các thành trì, khiến cho chúng tự xếp giáo quy hàng, quân ta đỡ nhọc công đánh dẹp.

Theo kế hoạch rút quân, quân Minh từ các thành sẽ tập trung cả về Đông Quan, rồi rút về nước Minh một lượt. Vương Thông trong tình thế cùng quẫn đã chấp nhận kế hoạch này, sai người đi cùng với người của ta đem thư gởi cho các thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình… Để tiện việc báo cáo về nước, Vương Thông khuyên Lê Lợi nên lập con cháu họ Trần lên làm vua hòng bịt miệng phái chủ chiến tại triều đình nước Minh, cũng là để bào chữa cho tội đánh dẹp thất bại của Vương Thông về sau. Lê Lợi trước đó đã lập Trần Cảo làm vua bù nhìn, nay theo lời Vương Thông, mọi thư từ với nước Minh đều lấy tên Trần Cảo làm vua. Còn bản thân Lê Lợi chỉ xưng là Lam Sơn Động Chủ. Đây là một thủ đoạn chính trị tạm thời của Lê Lợi và quân Lam Sơn để giúp cho quân dân ta đỡ tốn xương máu cho cuộc chiến mà vẫn đuổi được giặc về nước.

Việc dụ hàng diễn ra tương đối thuận lợi. Nhờ vào tài văn chương của Nguyễn Trãi và sách lược địch vận đúng đắn của Lê Lợi, hàng loạt các thành trì là Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá đều mở cổng thành đầu hàng. Quân Lam Sơn giữ đúng giao ước, hễ quân tướng giặc ra khỏi thành đều được cấp thuyền bè, sửa sang cầu cống cho thuận lợi đến tập kết tại thành Đông Quan, lại còn cho đoàn tụ vợ con, cấp cho lương thực, thuốc men dọc đường đi. Công lao của Nguyễn Trãi trong việc thuyết phục Vương Thông và dụ hàng các thành trì là rất lớn. Nhờ vào việc này mà ông càng được Lê Lợi tin dùng và hậu thế luôn dành lời ca tụng.

Học giả Bùi Huy Bích thế kỷ 18 đã nhận định về những văn thư mà Nguyễn Trãi làm trong công cuộc ngoại giao, địch vận là “có sức mạnh như 10 vạn quân”. Lời bàn ấy không hề quá lời bởi muốn công phá một trong số các thành trì kiên cố của quân Minh đều phải dùng quân đến hàng vạn mới chắc thắng. Tất nhiên, thành tựu của Nguyễn Trãi cũng là thành tựu chung của tướng sĩ Lam Sơn, khi mà sức mạnh của quân ta đã làm cho giặc khiếp vía trước. Tỷ như văn chương và mưu lược của Nguyễn Trãi sắc sảo mà quân Lam Sơn không chiếm được tiện nghi từ trước, thì cũng chẳng dễ gì khiến các tướng Minh chịu khuất phục.

Việc hoà nghị đương thuận lợi thì bị phá hoại. Bọn nguỵ quan là Lương Nhữ Hốt, Trần Phong, Trần An Vinh ở thành Tây Đô (Thanh Hoá) vì sợ rằng khi quân Minh rút về nước rồi thì chúng sẽ không còn chỗ nương thân, nên không chịu phục, vẫn giữ lấy cô thành và khuyên quân Minh giả cách hoà nghị, bên trong tiếp tục nuôi dưỡng thực lực. Như Hốt ngầm biên thư mật báo với Vương Thông rằng: “Trước kia Ô Mã Nhi bị thua ở sông Bạch Đằng, đem quân về hàng. Hưng Đạo Đại Vương cho hàng, nhưng dùng mưu lấy thuyền lớn cho đưa họ về nước, rối cho người giỏi bơi lặn sung làm phu thuyền. Ra đến ngoài biển, lừa lúc ban đêm mọi người ngủ say, bọn phu thuyền lặn xuống nước, dùi đủng đáy thuyền, những người đầu hàng đều bị chết đuối hết, không một ai sống sót trở về được” (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).

Vương Thông được thư sợ tái mặt, bèn theo kế của Lương Nhữ Hốt, ngoài mặt vẫn ra vẻ hoà hiếu, bên trong vẫn lo đào hào đắp luỹ. Quân Minh đào luỹ kép, dưới luỹ làm bẫy chông nhọn, đúc thêm nhiều hoả đồng (súng phun lửa), tính kế cố thủ. Thông lại sai mấy chục tốp thám tử chia làm nhiều ngả đem thư bọc sáp ngầm lẻn về bắc xin thêm viện binh.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-xjSDd6CsRhw/X0On1K0jLAI/AAAAAAACO0M/3p636nxDOUAJStk6JctbNV44yxFKzXjWQCLcBGAsYHQ/s640/124.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 125

NHÀ MINH KÉO 15 VẠN VIỆN BINH
HUYẾT CHIẾN THÀNH XƯƠNG GIANG


Đầu năm 1427, Bình Định vương Lê Lợi mặc dù đã hoàn toàn chiếm thế thượng phong trên chiến trường nhưng vẫn mở cho quân Minh một lối thoát trong danh dự, tích cực thúc đẩy việc hoà nghị. Lê Lợi đã có nhiều nhượng bộ như chấp nhận tôn Trần Cảo làm vua, chấp nhận một nước Đại Việt mới gây dựng lại sẽ thực hiện triều cống nước Minh theo lễ nước nhỏ đối với nước lớn, bản thân Lê Lợi thì chỉ xưng làm Lam Sơn động chủ để tiện cho việc hoà đàm. Đối với quân Minh đầu hàng, phía ta đã cam kết đảm bảo đường sá, thuyền bè đi lại, hứa sẽ giữ an toàn cho chúng rút về nước. Thế nhưng thiện chí đó là không đủ để dập tắt lửa chiến tranh. Trong khi Vương Thông vì nghe lời xui của bọn nguỵ quan mà hành xử tráo trở với quân ta, thì tại nước Minh đang gấp rút điều động thêm những đạo quân tiếp viện lớn.

An Viễn hầu nước Minh là Liễu Thăng được vua Minh Tuyên Tông giao cho các quân lấy từ Bắc Kinh, Nam Kinh cùng các tỉnh Hồ Quảng, Giang Tây, Phúc Kiến, Chiết Giang, Sơn Đông, Hà Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Phúc Kiến. Tổng cộng chừng 10 vạn quân tinh nhuệ, 2 vạn ngựa chiến, nhận nhiệm vụ tiến xuống nước ta từ hướng Quảng Tây, phối hợp với quân Minh đang cố thủ ở thành Xương Giang đánh xuống thành Đông Quan từ hướng đông bắc.

Kiềm Quốc công Mộc Thạnh – tên tướng già nhiều phen chinh chiến tại Đại Việt được giao các quân điều động từ Thành Đô, Tứ Xuyên, Vân Nam, tổng cộng chừng 5 vạn tinh binh, 1 vạn ngựa chiến. Đạo quân này nhận nhiệm vụ từ Vân Nam tiến xuống, băng qua vùng Tây Bắc nước ta, trước chiếm thành Tam Giang rồi sau đó đánh toả xuống đồng bằng, phối hợp với quân của Vương Thông ở thành Đông Quan.

Khác với các lần tăng viện trước đó, lần này Minh triều gần như chuẩn bị lại cả một bộ khung xâm lược mới với trọn vẹn một đạo quân đông đến 15 vạn, được biên chế đầy đủ, được chuẩn bị về lương thực, khí giới để có thể hoàn toàn độc lập tác chiến trước khi phối hợp được với các đạo quân Minh tại các thành trì trên lãnh thổ nước ta. Để tập trung một lực lượng quân viễn chinh lớn như thế trong bối cảnh vừa mới điều động 5 vạn quân cho Vương Thông đi đánh chưa lâu, nước Minh đã phải mất hơn nửa năm trời tiến hành hàng loạt những cuộc hành quân, gom quân, vận chuyển lương thực, khí giới không ngơi nghỉ. Tướng lĩnh cầm quân đều được vua Minh tuyển chọn từ những tướng có nhiều kinh nghiệm tại Đại Việt. Ngoài Liễu Thăng, Mộc Thạnh còn có các tướng Lương Minh, Lý Khánh, Hoàng Phúc, Thôi Tụ …

Sự tráo trở của Vương Thông và việc nước Minh ráo riết điều quân tiếp viện đều được nghĩa quân Lam Sơn nhanh chóng biết được. Đó là một vấn đề không hề đơn giản đối với quân ta, đòi hỏi phải có những quyết định chính xác để không bị mất đi thế thắng. Nếu như chỉ phải đánh với Vương Thông và những quân Minh ở các thành trì bị bao vây thì quân Lam Sơn đã hoàn toàn áp đảo, chỉ cần chờ cho kẻ địch trong các thành hết lương thực, khí giới chúng sẽ phải quy hàng hoặc chịu chết. Thế nhưng tình hình lúc này đòi hỏi quân ta phải có giải pháp đối với các thành trì để khi viện binh giặc tiến sang, chúng không còn khả năng “nội ứng ngoại hợp”.

Trong quãng thời gian tương đối dài mà nước Minh tiến hành gom quân thì ở trên chiến trường cũng có nhiều diễn biến phức tạp. Tin tức vua Minh quyết định tăng viện lớn đến tai bọn quân Minh trong các thành trì khiến chúng trở nên phấn chấn trở lại, nuôi hy vọng dằn co với quân Lam Sơn cho đến khi được cứu viện. Bình Định vương Lê Lợi căm giận sự giả trá của Vương Thông và bọn quân tướng Minh, bèn tuyệt giao, tăng cường cho quân đánh giặc. Vương Thông thường phái thám tử về bắc xin viện binh và liên lạc, quân ta phục bắt đến hơn 3.000 tên và 500 con ngựa. Thông đành phải thôi không cho người ra thành do thám nữa.

Nhận thấy rằng những thành trì ở gần phía bắc nằm trên hai tuyến đường từ Vân Nam, Quảng Tây nước Minh tiến sang có thể trở thành những điểm tiếp vận, phối hợp với viện binh của giặc, Bình Định vương Lê Lợi đồng loạt điều quân đi đánh chiếm.
Bùi Quốc Hưng lãnh binh đánh thành Điêu Diêu (Gia Lâm, Hà Nội ngày nay), Thị Cầu (thuộc Bắc Ninh ngày nay)

Trịnh Khả, Lê Khuyển nhận lệnh tiến đánh thành Tam Giang (thuộc Vĩnh Phúc ngày nay)
Trần Lựu, Lê Bôi đem quân đánh thành Khâu Ôn (thuộc Lạng Sơn ngày nay).

Riêng thành Xương Giang (Bắc Giang ngày nay) là thành trì vững chắc và nằm ở vị trí chiến lược quan trọng trên tuyến đường Thiên lý từ Quảng Tây đến Đông Quan, Lê Lợi phái hàng loạt tướng giỏi là Lê Sát, Lê Thụ, Nguyễn Đình Lý (tức Lê Lý), Lê Lĩnh, Lý Triện, Lê Hốt … cùng hàng vạn quân đi đánh.

Nhân dân cả nước cũng tích cực tham gia vào các cuộc vận lương, chuyển khí giới cho quân Lam Sơn đánh thành. Kết quả các mặt trận công thành có khác biệt lớn. Thành Điêu Diêu đầu hàng trong tháng 2.1427, thành Thị Cầu đầu hàng tháng 3.1427 sau khi nhận thư dụ hàng do Nguyễn Trãi viết. Thành Tam Giang đầu hàng vào tháng 4.1427 khi Nguyễn Trãi đích thân vào chiêu dụ tướng giữ thành là Lưu Thanh. Việc nhanh chóng chiếm được các thành này giúp cho Lê Lợi có thể nhanh chóng tập trung lại lực lượng, tiếp tục khép chặt vòng vây Đông Quan.

Ở mặt trận thành Khâu Ôn, quân Minh cậy ở gần biên giới, quân lương khí giới đầy đủ nên kiên quyết cố thủ. Trần Lựu, Lê Bôi ngoài việc đối phó với quân Minh trong thành còn phải ghìm nhau với 5 vạn quân của Cố Hưng Tổ ở Quảng Tây. Tại đây diễn ra nhiều trận đánh quyết liệt, hễ quân Lam Sơn tiến đánh thành thì giặc dùng súng thần công, phi pháo bắn ra như mưa, lại có quân Quảng Tây chực ứng cứu. Chiến sự dai dẳng từ tháng 2.1427 đến mấy tháng sau quân ta vẫn chưa hạ được thành. Đến tháng 8.1427, Trần Lựu và Lê Bôi dùng kế nghi binh đánh thành, dụ 5 vạn quân của Cố Hưng Tổ tiến cứu. Quân ta ngầm mai phục ở ải Pha Luỹ, đánh tan quân của Cố Hưng Tổ. Bấy giờ Trần Lựu và Lê Bôi mới rảnh tay dốc toàn lực đánh thành Khâu Ôn, phá được thành này. Tàn quân giặc chạy sang Quảng Tây, thương vong rất nhiều.

Riêng mặt trận thành Xương Giang, tình hình còn khó khăn hơn nữa. Thành Xương Giang kiên cố gần ngang ngửa thành Đông Quan, người Minh đã dời dân đến ở rất đông. Khi quân Lam Sơn đánh thành, các tướng Minh là Kim Dận, Lý Nhậm, Mã Trí, Lưu Nhuận, Lưu Tử Phụ … điều động hết quân Minh chính quy, nguỵ binh người Việt và dân binh người Minh cả trai lẫn gái đông hàng vạn người quyết đánh trả quân ta đến cùng. Giặc cậy thành cao, súng đạn nhiều, gây cho quân ta rất nhiều thương vong khi cố gắng tiếp cận. Lý Nhậm còn thường lựa những chỗ quân Lam Sơn sơ hở đem quân tinh nhuệ nửa đêm ngầm ra đánh úp, đốt phá chiến cụ. Đối phó với thành trì vững chắc, quân đông tướng mạnh tại thành Xương Giang, quân tướng Lam Sơn đã phải gặp rất nhiều trở ngại. Qua đó cũng cho thấy việc đánh thành là khó khăn như thế nào, cũng thấy được sách lược “đánh vào lòng người” thay vì cố sức đánh thành ngay từ đầu cuộc khởi nghĩa là hết sức đúng đắn.

Thế nhưng, lúc này quân ta đã bước sang giai đoạn quyết định đòi hỏi phải đánh hạ những thành trì nằm ở những vị trí chiến lược quan trọng. Đặc biệt là thành Xương Giang, một thành trì không thể không đánh chiếm trước khi viện binh của Liễu Thăng, Mộc Thạnh tiến sang. Thử thách đối với nghĩa quân Lam Sơn vẫn còn lớn để có thể giành thắng lợi chung cuộc.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-HDXcms1t0C8/X3XgPTc-ZeI/AAAAAAACPXQ/RhWnzH0cIXQVKwNXPVpFYyaYhHcg8h9kQCLcBGAsYHQ/w490-h640/125.jpg

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 126

BỊ BAO VÂY
QUÂN MINH ĐƯỜNG CÙNG RÚT GIẬU


Giai đoạn nửa đầu thế kỷ 15, sau cuộc chiến Minh – Đại Ngu vốn đang là thời kỳ các loại súng thần công đặt trên mặt thành phát triển rất mạnh mẽ, trong khi các loại dã pháo cơ động ngoài chiến trường vẫn còn chưa phát triển mạnh. Bởi vậy, thành trì của quân Minh có ưu thế về hoả lực rất lớn. Ngoài lợi thế về hoả lực, quân Minh vẫn còn trong tay trên 5 vạn quân. Điều nguy hiểm hơn nữa là chúng là tự đặt mình vào thế cùng, sẵn sàng liều chết với quân Lam Sơn chứ không còn dễ dàng tan chạy như thuở nghĩa quân mới nổi lên chống giặc nữa.

Thực ra nếu quyết định công phá Đông Quan, quân Lam Sơn vẫn có cửa thắng cao, nhưng thương vong sẽ là rất khó lường. Trong bối cảnh quân ta còn phải chờ đón đánh viện binh, việc hạ thành quả là hạ sách. Bình Định vương Lê Lợi sau khi cân nhắc đã quyết định củng cố vòng vây thành Đông Quan. Nhiệm vụ đặt ra là không chỉ uy hiếp Đông Quan từ một vài hướng, mà còn phải tổ chức bao vây thật kín kẽ, không cho Vương Thông có đường hành quân đào thoát hay phối hợp với các khối quân Minh khác.

Bình Định vương Lê Lợi đã chia quân làm 4 hướng, đóng doanh trại ngay trước 4 cửa thành Đông Quan để bao vây :

- Hướng cửa đông do Thiếu uý Trịnh Khả thống lĩnh
- Thái giám Lê Chửng (hay Lê Cực) cầm quân Thiết Đột giữ cửa tây
- Hướng cửa nam do Tư đồ Đinh Lễ chỉ huy
- Thiếu uý Lý Triện được giao trọng trách trấn giữ cửa bắc

Tuyến sau của bốn doanh này là ba doanh trại Cảo Động (Từ Liêm, Hà Nội ngày nay) nằm phía tây bắc, trại Sa Lôi (thuộc Từ Liêm, Hà Nội) nằm phía tây, Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội) nằm hướng nam thành Đông Quan.

Vòng vây hai lớp này đảm bảo quân Minh trong thành Đông Quan hoàn toàn bị cô lập. Để có thể bố trí thế trận này, Bình Định vương Lê Lợi đã phải dùng rất nhiều binh lực. Cùng với việc bố trí lực lượng vây Đông Quan, Lê Lợi cũng dời đại doanh đến đóng ở Bồ Đề (Phú Viên, Gia Lâm, Hà Nội ngày nay). Đại doanh nằm dọc theo dòng sông Hồng, trong doanh dựng một vọng lâu nhiều tầng, cao bằng tháp Báo Thiên (khoảng hơn 90 mét) để nhìn vào trong thành. Ngày ngày, Vương ngự trên tầng cao nhất quan sát động tĩnh quân Minh trong thành. Nguyễn Trãi lúc bấy giờ nhờ có nhiều công lao nơi màn trướng, được tiến phong Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự là chức quan cao nhất văn ban. Trãi được vinh dự cho ngồi tầng dưới, cùng Bình Định vương thảo luận kế sách và phụ trách soạn thư thảo hịch gởi ra ngoài doanh, phân tích thư từ các nơi gởi đến.

Sở dĩ Lê Lợi trọng dụng một văn nhân như thế, là vì giai đoạn này quân Lam Sơn đã cai quản một vùng lãnh thổ rộng lớn, và cần phải biết cách điều hành bài bản, hòng huy động tối đã nhân tài, vật lực cho trận chiến sinh tử. Nguyễn Trãi là người từng có kinh nghiệm làm quan cho nhà Hồ, lại là một danh sĩ trước khi tham gia vào hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. Với việc tin dùng Nguyễn Trãi, Lê Lợi vừa phát huy được tài trí của nhân vật này, vừa được lòng hiền sĩ các nơi.

Tại dinh Bồ Đề, Lê Lợi đã xuống những chiếu thư cầu hiền, truyền hịch kêu gọi nhân dân càng chung sức hơn nữa. Một chiến luỹ cao ngang mặt thành Đông Quan được dựng lên ở bờ bắc sông Nhị (sông Hồng chảy qua hướng bắc Hà Nội ngày nay), nhờ vào sự đóng góp to lớn về sức người và của cải của nhân dân các xứ gần Đông Quan. Những trại ngoài vây quanh thành Đông Quan cũng đều dựng luỹ mà kiềm chế giặc. Chiến thuật lấy luỹ vây thành càng làm quân Minh gần như hết đường đào thoát. Quân Lam Sơn đêm ngày tuyển mộ đội ngũ, tập dợt thuỷ chiến, rèn thêm chiến cụ …

Tuy nhiên Vương Thông cũng không phải là một tướng tay mơ. Mặc dù không có khả năng lật ngược tình thế, tướng giặc vẫn cố gắng điều quân đánh phá vòng vây của quân ta, tìm kiếm những chiến thắng cục bộ hòng khích lệ tinh thần binh sĩ.

Ngày 4.3.1427, quân Minh từ trong thành quan sát thấy cánh quân ở Cảo Động bố phòng sơ hở. Phương Chính bèn cầm quân tinh nhuệ ra đánh úp. Cảo Động là tuyến bao vây vòng ngoài, còn cách thành Đông Quan một vòng vây. Bởi thế mà một số tướng sinh chủ quan, cho rằng giặc kéo ra thành tất gặp phải quân vòng trong trước, rồi quân vòng ngoài mới điều động ứng cứu. Nhưng không ngờ tướng giặc bạo gan lựa chỗ khoảng hở giữa các khối quân ta, dẫn quân luồng sâu xuyên qua trận địa. Lý Triện, Đỗ Bí cùng quân dưới trướng bị đánh bất ngờ nên thương vong lớn. Lý Triện cố sức đánh trả rồi tử trận. Đỗ Bí bị giặc bắt sống làm con tin.

Ngày 13.3.1427, quân Minh vẫn theo chiến thuật luồng sâu thình lình đánh vào trại Sa Đôi. Lần này quân Lam Sơn đã có phòng bị, cố sức chống trả. Hết sạch tên đạn, quân ta dùng cả vò lọ, gạch nấu bếp liệng vào quân Minh. Giặc không tiến được, phóng hoả đốt nhà dân làm kế hoả công. Các quân đa phần sợ lửa, nhảy xuống sông bơi trốn, chết đuối rất nhiều. Chỉ có quân Thiên Quan nhiều người không biết bơi, ở lại tử chiến với quân Minh. Khí thế của những người lính cùng đường đã bất ngờ đánh lui được giặc.

Sau hai trận đột kích ra ngoài của quân Minh, Lê Lợi bèn chỉnh đốn các quân, tăng cường phòng bị hơn nữa. Trong cuộc duyệt binh ở Vĩnh Động (Kim Thi, Hưng Yên ngày nay), Vương đã lệnh chém đầu Chánh đốc Nguyễn Liên vì hàng ngũ chiêng trống trễ nải. Nhờ tăng cường nghiêm lệnh, các quân bớt chủ quan hơn với giặc.

Ngày 6.4.1427, Vương Thông đem quân tinh nhuệ đích thân đánh vào trại Tây Phù Liệt. Thái giám Lê Nguyễn cố sức dựa vào luỹ mà cầm cự, quân Minh không công phá được. Đến lúc Đinh Lễ, Nguyễn Xí thấy động, liền tức tốc đem 500 quân Thiết đột và tượng binh đến cứu. Tinh binh gặp tinh binh, Vương Thông bỗng chốc trở nên thất thế vì bị hai hướng đánh kẹp lại. Thông liệu thế không chống nổi, bèn hạ lệnh thu quân. Đinh Lễ, Nguyễn Xí ham đánh quá, cứ cưỡi voi đuổi theo bất chấp việc quân của Vương Thông vẫn còn đông. Đuổi đến Mi Động, Thông ngoái lại thấy Lễ và Xí ít quân, liền hô quân đánh quật lại. Voi bị sa lầy, Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị giặc bắt. Nơi trướng giặc, Đinh Lễ không ngớt lời mắng chửi. Vương Thông giận quá đem giết đi. Nguyễn Xí thì dù mưu mẹo lừa quân canh, vượt ngục trốn thoát được về.

Những trận tập kích của Vương Thông tuy không làm thay đổi được thế trận chung, nhưng đã khiến quân Minh hăng hái hơn, và làm quân ta tổn thất nhất định. Mỗi một nghĩa quân ngã xuống đều đáng tiếc thương. Trong số những tổn thất đặc biệt phải kể đến là hai danh tướng Lý Triện, Đinh Lễ. Hai ông đều là tướng tài ba, đặc biệt trong chiến cuộc Ninh Kiều đã cùng nhau lập công lao rất hiển hách. Sự hy sinh của hai ông là mất mát rất lớn đối với nghĩa quân.

Những tổn thất ở Cảo Động, Sa Đôi, Mi Động cho thấy rằng tâm lý kiêu binh đã lan truyền trong quân Lam Sơn, sau những ngày dài kinh qua quá nhiều chiến thắng. Bình Định vương Lê Lợi sau khi hay tin Đinh Lễ bị giặc giết rất đau xót, than rằng : “Lỗi tại Lễ quen thắng rồi khinh địch, ta đã nhiều lần răn bảo rồi, quả nhiên bị hại” (theo Đại Việt Thông Sử). Đinh Lễ vốn là cháu gọi Lê Lợi bằng cậu, ngoài nghĩa vua tôi còn có tình thân huyết nhục. Trước đây, Đinh Lễ đại phá quân Minh ở Tốt Động, oai danh lẫy lừng. Quân tướng các doanh đều ca tụng Lễ là giỏi. Duy chỉ có Lê Lợi là răn bảo: “Trăm trận đánh được cả trăm trận không phải là tốt đâu, hắn cậy lanh giỏi quen mùi được luôn, thất bại có thể đứng trông thấy ngay” (theo Đai Việt Sử Ký Toàn Thư). Có thể thấy tâm lý khich địch mà Bình Định vương răn bảo Đinh Lễ cũng là lời nên dành cho toàn quân Lam Sơn vào lúc này.

Một điều may mắn cũng nên kể đến là sự trở về của danh tướng Nguyễn Xí. Ông bị bắt cùng với Đinh Lễ, nhẫn nhịn tìm thời cơ. Cuối cùng dùng mưu lừa được quân canh mà trốn về doanh trại. Khi Xí về đến nơi, Lê Lợi đang dùng bữa, buông đũa chạy vội ra đón mừng. Vua tôi mừng rỡ khôn xiết, Lê Lợi reo lên: “Thực là sống lại !” (theo Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí). Kế đó, Bình Định vương Lê Lợi lại sai đi cầm quân.

Trong lần thứ ba dẫn quân xuất thành đột kích quân Lam Sơn, Vương Thông đã không còn giữ được yếu tố bất ngờ nữa. Việc bắt được tướng của ta chỉ là tận dụng sai lầm cá nhân. Sau trận Mi Động, quân Lam Sơn đã rành mưu của giặc, càng bố trí phòng bị chặt chẽ hơn. Khi các tướng Minh khuyên Vương Thông tiếp tục xuất thành giao chiến, hắn đã bác bỏ vì biết chiến thuật cũ đã không còn dùng được.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-boMW179XSec/X6QwBYKcAeI/AAAAAAACPg8/EGTfouX3sq4BaGxT8FxJKk806oHNU0hHwCLcBGAsYHQ/w640-h480/127.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 127

LÊ LỢI CÓ 35 VẠN QUÂN
SẴN SÀNG CHO CUỘC CHIẾN LỚN


Tại mặt trận thành Đông Quan thế trận đã diễn ra đúng như kế hoạch của bộ chỉ huy quân Lam Sơn. Vương Thông sau một số cố gắng quấy rối vòng vây của quân ta, cuối cùng lại phải chịu cảnh bị vây khốn đến mức không còn đường ra khỏi cổng thành. Thế nhưng vẫn còn một những vấn đề lớn mà nghĩa quân Lam Sơn cần phải giải quyết trước khi bước vào trận đánh quyết định với viện binh từ nước Minh sang.

Một trong những vấn đề cốt yếu nhất là chỉnh đốn lại đội ngũ, tổ chức. Sự phát triển quá nhanh về quy mô trong một thời gian ngắn bên cạnh việc giúp cho quân đội Lam Sơn trở thành một đạo quân đông mạnh, cũng nảy sinh những khó khăn cho các chỉ huy tối cao ngay trong việc quản lý chính đội quân của mình. Đến năm 1427, quân Lam Sơn đã đông đến hơn 35 vạn người. Trong số này, có rất nhiều tân binh chưa nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Bình Định vương Lê Lợi đã phải tổ chức nhiều cuộc tập trận, duyệt binh để nâng cao khả năng chiến đấu cho các tân binh. Đồng thời, tổ chức quân đội cũng được xếp đặt lại một cách bài bản và quy củ. Kỷ luật được quy định rõ ràng và nghiêm ngặt. Lê Lợi cho thi hành 10 điều nghiêm cấm đối với tướng hiệu và quân nhân, hễ ai phạm phải một trong các điều này đều xử chém:

1 - Làm huyên náo trong quân.
2 - Gây kinh động hão, bịa điều hoạ phúc làm dao động lòng quân.
3 - Khi ra trận, nghe tiếng trống, thấy cờ hiệu mà giả cách không nghe, không thấy, dùng dằng
không tiến.
4 - Khi ra trận, trông thấy cờ dừng quân, nghe thanh la dừng quân mà không đứng lại.
5 - Nghe tiếng chiêng lui quân mà cưỡng lại không lui.
6 - Canh phòng túc trực không siêng, hoặc ngủ say bỏ canh, bỏ hàng ngũ ngầm trốn về.
7 - Đắm đuối nữ sắc,lén lút thả riêng cho người họ nhà vợ không làm quân dịch.
8 - Thả quân lính để lấy tiền và che dấu không biên vào sổ quân.
9 - Theo thói ưa ghét của riêng mình mà đảo lộn công tội của người.
10 - Bất hoà với mọi người, gian ác, trộm cắp.
( theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư )

Đối với các võ tướng thì có thêm ba điều răn :
1- Chớ thờ ơ.
2- Chớ lừa dối.
3-Chớ tham lam.
( theo ĐVSKTT )

Sau đó, lại ra quân lệnh: “Hễ nghe một tiếng pháo nổ mà không có tiếng chiêng thì phải đến ngay để nghe mệnh lệnh. Khi nào có hai, ba tiếng pháo và hai ba tiếng chiêng nổi lên thì là có động gấp rút, bấy giờ chấp lệnh thì mau mau sắp xếp hàng ngũ cho chỉnh tề, thiếu uý thì tới quân doanh để nghe mệnh lệnh. Các quân khi đi trận, mà lùi chạy, hoặc bỏ không cứu quân đoạn hậu thì phải chém. Nhưng khi biết góp sức khiêng ra được bạn đồng ngũ không may chết trận thì được miễn tội chạy trốn ấy.” (theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục)

Những quy định rất cụ thể, rõ ràng đã giúp khả năng hiệp đồng tác chiến quy mô lớn của quân Lam Sơn được nâng cao. Đặc biệt là đầu não Lam Sơn dù trên đà thắng trận nhưng vẫn dự liệu việc ra quân bị thất thế bị rút lui, nên ra ra điều luật “bỏ không cứu quân đoạn hậu thì phải chém”. Điều này có nghĩa là chẳng may thất thế, thì đội quân chặn hậu vẫn được coi là đối tượng được các đồng đội hỗ trợ để tìm đường sinh tồn, chứ không phải mặc định là đội cảm tử, “thí mạng” như nhiều quân đội khác.

Thói kiêu binh cũng là một trong những điều quan trọng cần nói. Kiêu binh trước là khinh nhờn quân pháp, sau là chủ quan khinh địch, muốn sớm nhàn hạ. Việc Lý Triện, Đinh Lễ tử trận chính là những ví dụ điển hình về sự tai hại của sự kiêu ngạo. Lê Lợi đã cố gắng uốn nắn, khuyên răn các tướng sĩ của mình. Bấy giờ quân Thiết đột trải nhiều phen gian lao, nhiều người hy sinh. Lê Lợi cố gắng uỷ lạo những chiến sĩ tinh anh này, và ra chiếu dụ rằng: “Đồng lòng liều mạng để phá giặc… Đó là công sức của các ngươi. Còn như sắp xếp quy mô kế hoạch, lo liệu áo mặc, lương ăn, ban thưởng, ban tước thì ở cả một mình ta đây. Các ngươi nên một lòng một dạ đánh giặc, đừng ngại nhọc nhằn” (theo KĐVSTGCM)
Lê Lợi thậm chí bất đắc dĩ đã phải dùng nghiêm hình đối với những người có thân tín có công cao, chức lớn để làm răn, hòng củng cố kỷ luật quân đội. Tư mã Lê Lai (tên thật là Nguyễn Thận, đổi sang tên Lê Lai, trùng tên với Lê Lai chết thay cho Lê Lợi) cậy là người theo hầu Lê Lợi từ đầu, có nhiều công lao đánh dẹp, nên ăn nói có nhiều lời khinh mạn. Lê Lợi đã xử tử Lê Lai vì vi phạm quân pháp.

Lê Lợi đồng thời cũng xuống chiếu dụ quân dân: “Giặc mạnh chưa trừ diệt hết, dân sinh chưa được thoả thuê, các ngươi có yên tâm không? Xưa kia, họ Hồ lỗi đạo, người Minh thừa cơ kéo sang xâm lược, bắt dân ta phải chịu thuế nặng, sưu cao, hình phạt hà khắc. Các ngươi đều mắc vào vòng bạo ngược của chúng, nên mới cùng nhau đứng dậy, chống kẻ thù địch. Bây giờ công việc đã gần thành tựu, các ngươi nên cố gắng đắp tròn quả núi, đừng để thiếu một sọt đất mà núi phải dở dang! Vả, chỉ phải dùng sức khó nhọc một năm mà được hưởng vui sướng thái bình muôn thuở. Các ngươi hãy cố gắng lên!” (theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục)

Riêng đối với quân nhân, tướng hiệu người các xứ Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá là những xứ góp công lớn giúp cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vượt qua những thử thách chông gai buổi ban đầu, Lê Lợi vẫn có thái độ ưu đãi đặc biệt. Ngài dụ rằng:

“Ta khởi binh ở đất các ngươi, đã gần thành công. Mong các ngươi trước sau một lòng, vàng đá một tiết, để trọn nghĩa vua tôi, cha con. Ta biết các ngươi đều là hiền sĩ của đất nước. Trước kia, Hưng Khánh, Trùng Quang chỉ có tiếng hão, không nên công gì là bởi chính lệnh không thống nhất, đại thần không được biết gì. Bọn các ngươi chỉ uổng phí sức lực cho họ thôi. Nay thiên hạ về một mối, ta cùng các ngươi như nghĩa cha con, mong các ngươi dốc lòng khôi phục lãnh thổ nước nhà. Từ xưa các tướng văn tướng võ được phong hầu cũng chỉ như các ngươi thôi, có khác gì đâu. Các ngươi hãy chỉnh đốn đội ngũ của mình, luyện tập quân sĩ của mình, sau khi dẹp yên bọn giặc tàn bạo, sẽ chia một nửa sốngười về làm ruộng. Nay trời mượn tay ta diệt giặc, việc không đừng được. Kẻ nào theo lệnh ta thì phá được giặc, vẫn sống mà lại có công, kẻ nào không theo lệnh ta thì chết mà chẳng được việc gì! Mỗi đội đều phải chép lại một bản lệnh này, mỗi ngày đọc đi đọc lại nhiều lần cho quân lính được biết”. (theo ĐVSKTT)

Ngài cũng hứa hẹn sau khi dẹp giặc sẽ thư giãn sức dân, cho quân sĩ được nghỉ ngơi: “Giặc Minh tàn hại dân ta đã hơn hai chục năm. Buổi đầu số quân của ta có mấy trăm người. Hiện nay có 35 vạn. Đợi khi phá được thành Đông Quan, sẽ cho 25 vạn người về nhà làm ruộng, chỉ để lại 10 vạn làm quân để phòng việc nước. Một nhà 3 người thì 1 người làm quân, mọi loại phú dịch đều tha cho 3 năm” (theo ĐVSKTT)

Những chiếu dụ của Lê Lợi ban xuống là một nguồn động viên tinh thần rất lớn đối với quân dân cả nước, cũng là nhắc nhở quân dân rằng cần phải cố gắng hơn nữa mới có thể đi đến thắng lợi cuối cùng. Các chiếu dụ này, hầu hết đều qua ngòi bút của Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi soạn thảo. Sách Lam Sơn Thực Lục đã ghi nhận công lao của Nguyễn Trãi: “Vua từ khi khởi binh cho đến khi dẹp được giặc Ngô và giành lại được nước nhà, bao nhiêu văn thư qua lại ở trong quân ngũ đều do Nguyễn Trãi làm cả”.

Quân Lam Sơn cũng đặc biệt có bước thay đổi từ chế độ tuyển mộ sang chế độ quân dịch. Sổ quân dân đã được lập ra để kiểm soát nhân khẩu trên cả nước. Căn cứ vào sổ sách, tráng đinh sẽ thực hiện nghĩa vụ tòng quân diệt giặc. Những kẻ du thủ du thực, cố tình trốn tránh cũng bị truy xét, bắt buộc sung quân để đền nợ nước. Chế độ quân dịch đã đánh dấu sự chuyển mình của quân đội Lam Sơn từ một đạo quân ứng nghĩa trở thành một quân đội chính quy của chế độ quân chủ chuyên chế. Đây là xu hướng tất yếu đi cũng như việc một hoàng triều mới sẽ hình thành sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Việc đổi sang chế độ quân dịch đã giúp quân ta chủ động được nguồn quân số, và giúp san sẻ trách nhiệm diệt giặc cứu nước một cách công bằng hơn. Lê Lợi đã cố gắng huy động ở mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của cả nước

Các biện pháp chấn chỉnh đội ngũ, củng cố sự cai trị, cổ vũ tinh thần quân dân đã đem lại cho quân Lam Sơn một sức mạnh mới, sức mạnh của một vương triều phong kiến đang hình thành. Giặc Minh vẫn chưa sạch bóng trên toàn cõi đất nước, nhưng hiệu lệnh của Bình Định vương Lê Lợi đã thực sự được thông suốt từ trên xuống dưới, cố kết cả nước thành một khối thống nhất. Chỉ có như vậy quân dân ta mới đủ sức đương đầu với lực lượng quân Minh được tổ chức bài bản, quy củ và đông mạnh. Mùa thu năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đã đủ điều kiện để giải quyết dứt điểm những vấn đề còn lại trước khi viện binh giặc tiến sang. Vấn đề thứ nhất là hạ thành Xương Giang, một bàn đạp mà viện binh nước Minh có thể dùng. Vấn đề thứ hai là củng cố các cửa ải, cơ động các lực lượng hùng mạnh nhất lên biên ải để đón đánh giặc.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-NHSRGtFeRUY/X8OB1E-yKZI/AAAAAAACPlE/66OHyXWBWA0LD9bk9-C4jK3lM4vUeZiRACLcBGAsYHQ/w640-h384/135.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] ... ›Trang sau »Trang cuối