BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
Kỳ 137
CHIẾN LƯỢC VÀ CHIẾN THUẬT
CHỐNG QUÂN MINH CỦA LÊ LỢI [1]
Tìm hiểu Thế chiến thứ Hai cùng chiến tranh Triều Tiên, người nghiên cứu lịch sử khâm phục tướng Douglas MacArthur với chiến lược “tấn công nhảy cò” (Island hopping offences) tại các quần đảo Thái Bình Dương và cuộc đổ bộ tại hải cảng Inchon (Nhân Xuyên) Triều Tiên.
Năm 1942, sau khi nhận lệnh rời bán đảo Batan tại Philippines để đi đến Australia, tướng MacArthur hứa rằng sẽ trở lại giải phóng quần đảo này khỏi tay Nhật. Với chức vụ Tư lệnh quân đội Đồng minh vùng tây nam Thái Bình Dương, ông mở mặt trận phía bắc Australia, để rồi cuối cùng đổ bộ lên Philippines. Cuộc trường chinh có chiều dài hàng mấy ngàn cây số, kinh qua rất nhiều đảo nhỏ thuộc quần đảo New Guinea và Melanesia do quân Nhật chiếm đóng.
Nếu lần lượt tấn công để làm chủ tất cả các hải đảo này, quân đội Đồng Minh phải sử dụng rất nhiều quân, chấp nhận nhiều tổn thất và mất nhiều thời gian. Để tránh những khó khăn nêu trên, tướng MacArthur sử dụng lối hành quân “nhảy cò”. Ông chủ trương chỉ tấn công chiếm đóng các đảo quan trọng, rồi từ các đảo này dùng hải quân và không quân khống chế sự hoạt động của địch tại các đảo kế cận mà ông đã bỏ qua không cần chiếm đóng. Quyết định này rất hiệu nghiệm, vì chỉ dùng một lực lượng nhỏ cầm chân được lực lượng lớn của địch; dành thành phần sinh lực tiến nhanh lên phía bắc để giải phóng Philippines vào năm 1944.
Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên vào năm 1950, ngôi sao của tướng MacArthur lại càng sáng chói qua cuộc điều binh đổ bộ vào Inchon. Lúc bấy giờ quân Bắc Triều Tiên đột ngột tấn công Nam Triều Tiên cho đến tận thành phố Pusan (Phú Sơn) phía nam, sắp sửa đánh bật quân đội Liên hiệp quốc ra khỏi bán đảo này. Sau khi Pusan được tăng cường và giữ vững, nếu như thường tình, từ đó dùng bàn đạp tấn công lên phía bắc, thì phải đổ rất nhiều xương máu và mất rất nhiều ngày tháng. Tướng MacArthur chọn giải pháp khác. Ông cho đổ bộ tại Inchon, gần thủ đô Seoul (Hán Thành), nơi địch quân ít ngờ nhất vì nước thuỷ triều nơi này lên xuống rất nhanh, rất hạn chế thời gian đổ bộ. Cuộc đổ bộ đạt được yếu tố bất ngờ, thành công nhiều mà ít tổn thất. Lực lượng tấn công “chẹn họng ” cắt ngang nước Triều Tiên và tái chiếm thủ đô Seoul. Quân Bắc Triều Tiên với số lượng rất lớn kẹt giữa Seoul và Pusan, hầu như không đánh mà tan.
Tại nước ta, trong quá trình giữ nước và mở mang bờ cõi, các danh tướng có tầm nhìn chiến lược cỡ Đại tướng MacArthur, không phải là không có. Chiến lược “nhảy cóc” tại Thái Bình Dương và “chẹn họng” gần thủ đô Seoul mà vị tướng này đã dùng; thì riêng tại nước ta trước đây gần 600 năm, vua Lê Lợi đã từng sử dụng chiến lược tương tự, tạm gọi là “nhảy cóc và chẹn đường tiếp viện”.
http://sohanews.sohacdn.c.../2016/7-1469522168790.jpgI.
CHIẾN LƯỢC1.
NHẢY CÓCSau khi bao vây thành Nghệ An, vào cuối năm Ất Tỵ [1425] vua Lê Lợi nhận thấy quân tinh nhuệ của giặc đều đóng tại nơi này, lực lượng địch tại miền Bắc nhất định suy yếu. Ngài quyết định để một phần nghĩa quân cầm chân giặc tại Nghệ An, mang đại quân ra bắc tấn công vùng biên giới và uy hiếp thành Đông Quan [Hà Nội]. Nếu như một người tầm thường, lần lượt cho quét sạch quân địch trên đường tiến quân, thì mất không biết bao nhiêu ngày tháng; hơn nữa số quân địch bị tổn thất, sẽ có quân tiếp viện vượt biên giới sang tăng cường, thì chiến tranh còn lâu mới chấm dứt được. Bởi vậy trên đường tiến quân ra Bắc, nhà vua quyết định chỉ uy hiếp giặc co cụm lại trong thành, dùng lực lượng địa phương khống chế; rồi mang đại quân ra chẹn đường tiếp viện tại vùng gần biên giới.
Quyết định này rất hữu hiệu, phần lớn các đồn nhỏ của giặc không được tiếp tế khiến tinh thần quân lính suy sụp, lần lượt ra hàng. Riêng thành lớn như Nghệ An do Đô đốc Thái Phúc chỉ huy, cuối cùng cũng phải bỏ. Trong một văn bản của triều đình nhà Minh kết tội viên tướng này, tiết lộ rằng y rút quân từ thành Nghệ An đến sông Phú Lương [Hồng Hà], rồi bị đánh phải xin hàng, cuối cùng y hợp tác với nghĩa quân, đi chiêu hàng quân nhà Minh tại các thành.
Ngày 20 tháng 5 năm Tuyên Đức thứ 3 [2/7/1428]
… Chu An từ Chỉ huy Thiêm sự vệ Chấn Vũ được điều đi đánh giặc họ Lê, cải nhiệm tiền vệ Giao Chỉ, trấn thủ Nghệ An. Gặp lúc giặc Lê Lợi lộng hành, Đô đốc Thái Phúc triệu các tướng đến bàn:
“Nay tại đây thiếu lương thực, khó khăn, nên không thể giữ được, hãy thu thập về Đông Quan.”
Tất cả đều đồng ý. Riêng Thiên hộ Bảo Tuyên lĩnh binh hơn 100 tên chạy đến trại giặc. An đốc suất kẻ dưới quyền, cùng quân dân vệ Diễn Châu trở về thành Đông Quan. Đi đến sông Phú Lương gặp giặc; vì binh ít, yếu nên bị giặc bắt. Phúc bị giặc bức bách, lệnh đến các thành dụ các chỉ huy thành ra hàng… [1]
Ngay tại thành Thanh Hoá, các viên chỉ huy gan lỳ như La Thông, Đả Trung cũng đành thụ động, lo phòng thủ trong thành mà thôi:
Ngày 5 tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [2/1/1427]
Ngày hôm nay giặc họ Lê đánh châu Thanh Hoá không hạ được, bèn rút đi.
Trước đó, từ khi thất bại tại Ninh Kiều Thành Sơn hầu Vương Thông không còn vững lòng như trước, tự tiện cho Lê Lợi cai quản từ Thanh Hoá trở vào nam, truyền hịch cho quan quân tại nơi này rút về thành Đông Quan. Riêng châu Thanh Hoá không chịu nghe lệnh. Trước kia Lê Lợi đánh Thanh Hoá, Tri châu La Thông, Chỉ huy Đả Trung suất quân dân kiên thủ, có lúc mang quân đánh núi đất, sát thương giặc nhiều, thế giặc bớt căng thẳng. Lúc này hịch tới, người trong thành kinh sợ. Thông nói với Trung rằng, bọn chúng ta chống cự, mấy lần đánh bại giặc, ra khỏi thành thì không sống được; nay tại đây thành cao, hào sâu, lương nhiều, dân đông; so với việc chịu trói, chi bằng tận trung mà chết, mà chưa chắc đã chết đâu! Bọn [Vương] Thông bán thành cho giặc, lệnh này không thể theo được.” Rồi cùng với Trung tưởng lệ quân sĩ, giữ thành vững thêm; giặc đánh không hạ được, bèn bỏ đi. Khi Vương Thông bỏ Giao Chỉ, bọn [La] Thông cũng trở về kinh đô.
2.
CHẶN ĐƯỜNG TIẾP VIỆNCon đường tiếp viện chính của quân Minh lúc bấy giờ về phía Vân Nam theo hướng thượng lưu sông Hồng, sông Lô; về phía Quảng Đông, Quảng Tây theo hướng Lạng Sơn, Bắc Giang. Toàn thư ghi lại những nỗ lực của nghĩa quân ngăn chặn đường tiếp viện tại các vùng này như sau:
“Mùa thu tháng 8, vua cho là quân tinh nhuệ của giặc đều ở Nghệ An cả, các xứ Đông Đô của chúng nhất định suy yếu, bèn tăng thêm binh tượng, sai bọn Khu mật đại sứ Phạm Văn Xảo, Thái uý Lê Triện, Thái giám Lê Khả, Á hầu Lê Như Huân, Lê Bí đem hơn 3.000 quân, 1 thớt voi đi tuần tại các xứ Thiên Quan[Ninh Bình], Quảng Oai, Quốc Oai [Hà Tây], Gia Hưng [Sơn La], Quy Hoá [Lào Cai], Đà Giang, Tam Đái [Vĩnh Phúc], Tuyên Quang để cắt đứt đường viện binh của quân giặc từ Vân Nam sang. Bọn Thiếu uý Lê Bí, Thái giám Lê Khuyển đem 2.000 quân và 1 thớt voi đánh các xứ Khoái Châu, Bắc Giang, Lạng Giang để chặn viện binh từ Lưỡng Quảng tới.” [2]
Riêng Minh Thực lục ghi lại những cuộc giao tranh lớn tại vùng này như sau:
Văn bản ngày 12/11/1426 về cuộc giao tranh tại vùng Quảng oai [Hà Tây], Đô chỉ huy Tố Lượng bị bắt.
14/1/1427 nghĩa quân tấn công Ải Lưu Lạng Sơn, giết Bách hộ Hoàng Bưu.
7/4/1427 nghĩa quân vây Khâu Ôn, Lạng Sơn.
28/4/1427 nghĩa quân đánh tan đại đồn Xương Giang.
29/9/1427 nghĩa quân đánh tan đạo quân tiếp viện của Liễu Thăng tại Chi Lăng.
Với chiến thắng Xương Giang, rồi tiếp đến Chi Lăng đã dập tắt mọi nỗ lực chống cự của quân Minh. Cuối cùng thì Vương Thông thế cùng lực kiệt, không kịp đợi lệnh vua nhà Minh, tự tiện hội thề với vua Lê Lợi để xin rút quân về; chiến lược “nhảy cóc, và chặn đường tiếp viện” đã gặt hái thành công mỹ mãn.
http://truyencotich.vn/wp...012/10/le-loi-640x440.jpgII.
CHIẾN THUẬTNếu chiến lược là kế sách lớn chỉ đạo toàn cuộc chiến, thì chiến thuật giúp đạt những mục tiêu, từng bước hỗ trợ cho chiến lược; bởi vậy thiên tài quân sự cần giỏi cả hai: chiến lược lẫn chiến thuật. Sau đây xin nêu lên những chiến thuật căn bản, được thi triển trong cuộc kháng chiến chống quân Minh:
1.
Xua cọp ra khỏi núiHãy dùng bản đồ tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Lưu ý đến ngã ba sông Lam và sông La, cách Vinh khoảng trên 10 km; có một núi thấp mà người địa phương gọi là Rú Thành; đó là thành Nghệ An xưa, thời nhà Minh đóng quân tại đó. Thành này vây bọc bởi hai sông Lam, La; thành cao, hào sâu, ở vị thế cao khống chế các vùng xung quanh; không dễ gì tấn công được. Quân Minh đóng trong thành này, có lợi thế như cọp sống trong rừng.
Ngược theo dòng sông Lam khoảng hơn một trăm cây số là huyện Tương Dương, thuộc tỉnh Nghệ An; nơi này thời thuộc Minh gọi là châu Trà Long [Lân], do viên Thổ quan trung thành với nhà Minh là Cầm Bành đóng quân. Áp dụng chiến thuật “xua cọp ra khỏi núi“, nghĩa quân bao vây và tấn công Trà Long trong thời gian dài, quân Minh như cọp trong thành Nghệ An, buộc phải đi tiếp cứu, hoặc tìm cách chiếm lại sau khi thành mất. Nhìn trên bản đồ, con đường tiếp cứu của quân Minh ắt phải đi dọc theo sông Lam; hoặc muốn tránh né thì đi ngược dòng sông Phố, theo ngã Hương Sơn, Hà Tĩnh; rồi băng qua các huyện Thanh Chương, đến huyện Tương Dương. Lịch sử ghi nhận rằng quân Minh đã đi qua những chiến trường do vua Lê Lợi chọn lựa, chúng như con cọp ra khỏi rừng, nên bị thảm bại nhiều lần trên các tuyến đường này.
Sử nước ta, Toàn thư, lần lượt chép những chiến thắng như sau:
Tháng 9 năm Giáp Thìn [1424], nghĩa quân phục kích gần thành Trà Long, chém Đô ty Trần Trung và hơn 2.000 tên giặc. Ngày hôm sau đánh quân của Sư Hựu, chém hơn 1.000 tên.
Tháng 12 cùng năm, nghĩa quân chặn giặc tại Đỗ Gia [huyện Hương Sơn].
Tháng 12 cùng năm, nghĩa quân phục kích tại Khả Lưu [huyện Anh Sơn]; quân Minh bị chém hoặc chết trôi hàng vạn tên. Hôm sau lại tiếp tục phục kích tại Bồ Ải [huyện Anh Sơn], giết hàng ngàn giặc, rồi tiếp tục xua đuổi đến tận thành Nghê An.
Để tránh thiên kiến, chúng tôi xin tham khảo thêm Minh Thực lục. Trong một chiếu dụ trách phạt bọn Trần Trí, Phương Chính, Sơn Thọ về việc thất bại tại Trà Long, vua Tuyên Đức nhà Minh đã có lời lẽ nghiêm khắc như sau:
Ngày 5 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [12/4/1426]
Quan Tổng binh Giao Chỉ Vinh Xương bá Trần Trí, Đô đốc Phương Chính đánh dẹp bọn giặc Lê Lợi; tiến quân đến châu Trà Long, bị thua. Nguyên nhân Chính dõng, Trí khiếp nhược, vốn không hoà thuận với nhau; Nội quan Sơn Thọ lại chủ trương chiêu dụ nên đóng binh một chỗ không cứu, đến nỗi bị bại. Thượng thư Trần Hiệp tâu cho biết; Thiên tử nghiêm thiết trách Trí và Chính rằng:
“Giặc Lê Lợi vốn chỉ là tên nhãi con, nếu sớm tận tâm đánh bắt, thì dễ như nhặt một cọng lá; rồi các ngươi ngồi yên không lo tính, dưỡng giặc nên trở thành mối hoạn. Nay nghe tin mang binh tới ải Khả Lưu và châu Trà Lung [Long], cả hai nơi đều nhục vì tổn thất. Do bọn ngươi ngày thường dựa vào ý riêng tranh hơn thua, không ai chịu nhường; lúc đụng việc thì kẻ dõng tiến quân một mình nhưng vô mưu; người khiếp nhược thì sợ co lại không cứu; như vậy thì làm sao thành công được? Luận tội há có thể tha được ư! Nay tạm khoan dung, các ngươi ngày đêm hãy đồng tâm hiệp lực, luyện tập sĩ tốt tinh nhuệ, lo diệt giặc này để chuộc lỗi trước.”… [3]
Có thể bạn đọc nêu ý kiến rằng: nếu biết con đường tiến quân tới Trà Long gay go như vậy, thì đừng tiến! Xin thưa rằng đó là lệnh vua nhà Minh; bậc tướng giỏi như vua Lê Lợi đã tiên liệu sẵn ý định của đối phương, nên chọn sẵn chiến trường dành cho họ.
Ngày 16 tháng 7 nhuần năm Hồng Hy thứ nhất [29/8/1425]
Tuần án, Giám sát, Ngự sử Giao Chỉ tâu đầu đảng giặc Lê Lợi tại phủ Thanh Hoá tụ dân làm loạn vây châu Trà Lung [4] . Viên Thổ quan coi châu Tri phủ Cầm Bành chống giữ trong vòng 7 tháng, lương gần hết, quân gặp nguy khốn, xin mang binh cứu viện.
Thiên tử xem tờ tâu bùi ngùi sắc dụ Vinh xương bá Trần Trí cùng ba ty [5] tại Giao Chỉ rằng:
“Triều đình mệnh các ngươi trấn thủ Giao Chỉ là để yên ổn một phương; nay được biết bọn đầu đảng Lê Lợi cướp phá châu huyện, ngăn cắt đường sá. Các ngươi mới đây tâu rằng đã chiêu dụ Lê Lợi xin đợi mùa thu mát đến Thanh Hoá nhậm chức. Nay đã mùa thu rồi, thực sự Lợi đã đến nhậm chức chưa? Trẫm ước tính tên giặc này nguỵ trá, không có lòng qui thuận; chỉ dùng lời lẽ để hoãn binh để bọn chúng được thung dung tụ tập, tương lai tất gây hậu hoạn, các ngươi không suy nghĩ đến hay sao? Về việc Thổ quan Tri phủ Cầm Bành tại châu Trà Lung bị Lợi đánh vây 7 tháng nay rồi, lương thảo sắp hết, quân chết đến một phần ba, Bành vẫn kiên thủ cự địch, Giao Chỉ có được người như vậy cũng không dễ kiếm! Các ngươi từng chứng kiến lòng trung thành của con người này, sao không điều binh cứu viện?
Khi sắc dụ đến nơi, như thấy Lê Lợi không có bụng quy thuận hãy tìm cánh đánh bắt. Gấp phát binh tiếp viện Cầm Bành, vỗ về hậu hỹ, để bồi dưỡng lòng kiên cường trung thuận. Các ngươi đều là đại thần của triều đình, cần đồng tâm hiệp lực làm tròn uỷ nhiệm, đừng lo việc ban thưởng phong tước không được công bằng!” [6]
Những chiến thắng trên con đường huyết mạch từ thành Nghệ An đến châu Trà Long ngoài giá trị về phương diện quân sự, riêng về mặt nhân tâm cũng có tác động rất mạnh. Người dân vốn ghét quân Minh, nhưng vì sự bạo tàn của chúng, trước đó còn e dè. Nay thấy trước mắt thành quả chiến thắng, người người đều phấn khởi ủng hộ. Toàn thư chép việc dân huyện Thổ Du [huyện Thanh Chương, Nam Đàn ngày nay] mang trâu rượu đến khao quân, Thổ quan Cầm Quý mang quân đến giúp như sau:
“Mùa xuân tháng giêng, vua đem quân đến hương Đa Lôi, huyện Thổ Du, trấn Nghệ An. Già trẻ tranh nhau đem trâu rượu đến đón và khao quân. Mọi người đều nói:
“Không ngờ ngày nay lại được trông thấy uy nghi của nước cũ.”
Tri phủ châu Ngọc Ma là Cầm Quý đem hơn 8.000 quân và hơn 10 con voi đến giúp.” [7]
Có thể nói quân của Bình định vương Lê Lợi như cậu bé Phù Đổng, thực sự vươn vai lớn mạnh, ngay tại vùng đất Nghệ An.