IV.
Vận chuyển huyền cơ kể cũng mầu,
Chắc rằng ai khổ, chắc ai giàu?
Nghĩ đâu miệng thế khi yêu ghét,
Được mấy lòng người có trước sau!
Cuối tiết mới hay rằng sớm muộn,
Giữa vời sao đã biết nông sâu;
Ai suy trời đất thì liền rõ,
Mưa mãi đâu mà nắng mãi đâu.
9/
Thơ trách nữ thần:
Tương truyền tỉnh Bình Định có ngôi đền tục gọi là đền Châu Chấu rất linh thiêng. Trong đền thờ một nữ thần, hễ người qua kẻ lại, ai không ghé vào thắp nhang hoặc xuống cáng, xuống ngựa thì đều bị bà ta quật ngã thẳng cẳng.
Lúc đó Nguyễn Công Trứ đã đi làm quan, có dịp đi công cán qua, phu cáng xin ông xuống cáng để vào thắp hương nhưng ông cho là chuyện nhảm nhí, nhất định không chịu. Hai người phu vốn sung tín ngôi đền này, bây giờ bị bắt buộc phải khiêng qua thì run sợ lắm; hôm ấy trời lại mới mưa, đường trơn, bước chân lập cập, trẹo trọ thế nào suýt nữa thì té nhào, làm cho Nguyễn Công Trứ nằm trên cáng cũng phải một phen hú vía. Nhân thế Nguyễn Công Trứ mới đọc ngay một bài thơ rằng:
Mụ thần như rứa, rứa thì thôi.
Chút nữa làm ông thịch cái rồi
Dẫu có khôn thiêng đành phận dưới
Lẽ nào châu chấu đấu ông voi?
Rồi chẳng mấy chốc bài thơ đến tai những khách bộ hành và lan đi khắp cùng. Thế là từ đấy người ta sinh ra nhờn với nữ thần, chẳng mấy ai chịu xuống cáng, xuống ngựa nữa. Câu chuyện đền thiêng cũng từ đấy đâm ra nhạt dần.
10/
Phá đền thì phải làm đền:
Không biết từ đâu mà trong dân gian lưu truyền một câu sấm đồn là của Trạng Trình:
Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi vương.
(đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại làm vua)
Đời thứ hai Gia Long thì chỉ có thể là đời vua Minh Mệnh, Vĩnh Lại chỉ vào quê hương Trạng Trình. Vua Minh Mệnh tính vốn đa nghi, khắc nghiệt. Biết được câu sấm ấy, nhà vua vừa để ý đề phòng vừa căm giận Trạng Trình. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ, được lệnh đến đập phá đền thờ Trạng.
Ông Trứ mang quân đến, cứ theo lệnh triều đình, cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi rút mộng thượng lương ra thì thấy một cái hộp nhỏ đã để sẵn trong tấm gỗ rơi xuống. Ông Trứ mở xem, thấy có một mảnh giấy đề mấy chữ:
Minh Mệnh thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền thì phải làm đền
Nào ai cướp thế tranh quyền chi ai !
Ông Trứ giật mình hốt hoảng, đành tâu lại với triều đình, xin làm lại ngôi đền cho Trạng Trình. Sau bắt được tên trùm phỉ, tra hỏi ra mới biết câu sấm ấy là do hắn phao đồn.
11/
Thơ vần om :
Nguyễn Thị Quyên là con gái út của Nguyễn Công Trứ, lấy chồng là tú tài Trần Hữu Ý người làng Đan Phổ huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, nên thường được gọi là bà Tú Ý. Bà nổi tiếng văn chương tài hoa, mẫn tiệp.
Tương truyền trên một chuyến đò sông Lam, một ông cử trong vùng, biết người đồng thuyền là bà Tú Ý, một nhân vật nổi tiếng văn chương, liền kèo nèo bà xướng một bài thơ để hoạ cho vui. Từ chối mãi không được, bà Tú Ý bên đọc:
Đồn rằng hay chữ tiếng om xòm
Nay được tai nghe mắt lại dòm
Kinh sử dám phô tài nấu đúc
Ngọt bùi luống được tiếng khen bom
Non Mai ngó lại tùng trăm thước
Sông Phố trôi xuôi liễu một chòm
Sẵn tiếp vài lời khi gặp gỡ
Dám đâu cửa sấm trống tì tòm.
Một loạt vận “om, òm” như thế thì gay quá. Ông cử nọ không nghĩ ra được câu nào. Thuyền trôi rồi thuyền cập bến. Ông cử sượng sùng xin khất hôm sau sẽ gởi bài hoạ đến tận nhà.
Nhưng một tháng, rồi hai tháng, chẳng thấy tăm hơi đâu. Bà Tú Ý ngẫm nghĩ rồi buồn cười cho cái anh chàng bất tài mà hợm hĩnh, lìền gởi tiếp cho ông cử một bài thơ nữa như sau:
Mấy lâu gằn gục một bài thơ
Ván đã như chùi, chiếu lại xơ
Đầu gối lắc hoài, câu chẳng đặng
Hàm râu nhổ hết, bút còn trơ
Mực mài bản thảo đen trăm chão
Phấn rắc hoa tiên trắng một tờ
Nhắn hỏi tao ông (1) rày đã tỏ
Đây là cửa sấm biết hay chưa?
(1) Tao ông, cũng như tao nhân, là người tao nhã hay thơ văn
Được bài thơ nầy, ông cử cũng cứng họng không hoạ nổi. Còn câu chuyện bài thơ vần “om” thì cứ ngày một lan rộng thành câu chuyện vui cười ở các quán nước trong cả vùng.
12/
Nguyễn Công Trứ và Hà Tôn Quyền:
Hà Tôn Quyền tự Tốn Phủ, hiệu Phương Trạch, biệt hiệu Hải Ông, người xã Cát Động, huyện Thanh Oai tỉnh Hà Đông, Đỗ tiến sĩ năm Minh Mạng thứ 3 (1822), làm quan đến Lại Bộ tham tri.
Ông trước sau chỉ làm quan tại triều chứ không phải đi tỉnh, vốn có ác cảm với Nguyễn, - vì Nguyễn lập được nhiều công to, lại có tính ngang ngạnh, - nên tìm mọi cách dèm pha, gây cho Nguyễn nhiều bước thăng trầm. Một hôm Hà bày một tiệc rượu mừng con thi đỗ. Có mời cả Nguyễn. Trước sân nhà Hà, có cây vông to lớn, nhân Hà ra đề “Vịnh cây vông” để mọi người ngâm vịnh.
Nguyễn Công Trứ vốn không thích ngâm vịnh với bọn họ, nhưng thấy mấy bài thơ rặt một giọng tán dương, nịnh hót vị đại thần chủ nhân kia thì ông tỏ vẻ ngứa ngáy khó chịu, bèn cũng vịnh một bài thơ như sau:
Biền, nam, khởi, tử (1) chẳng vun trồng
Cao lớn làm chi những thứ vông.
Tuổi tác càng già, già xốp xáp,
Ruột gan không có, có gai chông (2)
Ra tài lương đống không nên mặt,
Dựa chốn phiên ly (3) chút đỡ lòng
Đã biết nòi nào thời giống ấy,
Khen cho rứa cũng trổ ra bông!
(1) Tên bốn chữ gỗ tốt
(2) Cây vông càng già trong ruột càng xốp rỗng và ngoài vỏ càng lắm gai.
(3) Rào giậu
Đại ý bài thơ nói rằng: sao không trồng thứ cây gỗ tốt như bìền, nam, khởi, tử mà lại đi trồng cây vông làm gì. Vông là thứ cây xốp, làm rường cột (lương đống) không được, thân chỉ có gai, chỉ tạm làm bờ rào (phiên ly) được thôi. Giống cây ấy mà cũng ra hoa thì cũng lạ. Ý hai câu kết ám chỉ con trai viên đại thần, nòi nào giống ấy, vô dụng như cây vông, mà cũng thi đỗ thật nực cười.
Hà thấy mình là rường cột của triều đình mà bị mỉa “Ruột gan chẳng có, có gai chông” và “rường soi cột trổ không nên mặt” giận lắm, bảo Nguyễn :
- Quân tử ố kỳ văn chi … quan lớn.
Nguyên đây là câu chữ liền trong sách Trung Dung: Quân tử ố kỳ văn chi trứ (người quân tử ghét những sự loè loẹt bên ngoài). Hà dùng chữ quan lớn thay cho trứ, vừa là khiêm tốn kiêng tên, lại vừa có ý mỉa mai: người quân tử ghét cái văn của anh Trứ !
Nguyễn đáp ngay:
- Thành nhân bất đắc dĩ dụng … quý ngài
Đây cũng là câu chữ có sẵn trong sách: Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền (thánh nhân phải dùng đến quyền lực chỉ là sự bất đắc dĩ). Nguyễn dùng chữ quý ngài thay cho quyền cũng là kiêng tên mà lại có ý nói xỏ xiên: vua dùng ông là cực chẳng đã đó mà thôi!
Năm 71 tuổi, Nguyễn xin về hưu; trước khi rời kinh đô, ông sắm cỗ xe dùng một con bò cái cổ đeo nhạc ngựa, để kéo đi từ biệt các bạn đồng liêu. Khi tới nhà Hà Tôn Quyền, ông lấy một tấm mo cau, viết bài thơ tứ tuyệt, rồi buộc mo vào phía trong đuôi bò. Những khách qua đường xúm lại xem thơ cười rúc rích, khiến cho họ Hà, khi tiễn chân Nguyễn ra cửa, thấy vậy cũng muốn ra xem. Nguyễn gạt đi, nói rằng thơ dở lắm, không đáng để ý, và chạy lại lật sấp tấm mo. Hà càng đòi coi kỳ được, sấn tới quay ngửa tấm mo ra đọc, trước còn đọc to, sau giọng khẽ dần và mặt mày tím bầm.
Thơ rằng:
Xuống ngựa lên xe chớ tưởng nhàn,
Lợm mùi giáng chức với thăng quan!
Điền viên, dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo, bưng … miệng thế gian!
Thì ra miệng thế gian hay dèm pha, như cái miệng của một vài quan đồng liêu chẳng hạn. Nguyễn Công Trứ đặt vị trí của nó vào phía trong của đuôi con bò cái!
13/
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo:
Năm 71 tuổi ông về hưu trí, đi qua chùa Đại Nại tỉnh Hà Tĩnh, thấy chỗ ấy dân thuần tục tốt, phong cảnh hữu tình, bèn bỏ tiền ra mở mang chùa, cảnh rất tráng lệ. Ông làm mấy gian nhà tranh ở cạnh chùa để xem sách và tiếp khách. Trong nhà nuôi một bọn ả đào, ngày ngày nghe hát. Nhiều khi lên chùa, ông cũng đem ả đào theo, vì tính ông phóng khoáng, cho như thế là thường tình.
Ông có làm bài hát “Ngất ngưởng” tả cái cao ngạo của mình, lúc nợ nam nhi đã trang trắng, vòng cương toả hết vướng chân, là lúc có thể theo sở thích của mình, không còn cần để ý gì đến những thành kiến của xã hội:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự (1)
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi thủ khoa, khi tham tán, khi tổng đốc Đông (2)
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưỡng!
Lúc bình tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên (3)
Nhạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi!
Gót sen theo đủng đỉnh… một đôi… dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Hàn, Nhạc cũng phường Mai Phúc, (4)
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung…
Đời ai ngất ngưởng như ông !
(1) Trong vũ trụ đâu chẳng là phận sự
(2/ Đông là tỉnh Đông, tức Hải Dương
(3) Tổ: dây thao để đeo ấn. Ngày xưa người làm quan bỏ về gọi là giải tổ
(4) Hàn Kỳ, Nhạc Phi, danh thần đời Tống; Mai Phúc, danh nho đời Đông Hán
14/
Thơ đêm tân hôn:
Năm 73 tuổi, nạp một người thiếp còn đương độ thanh xuân, tối tân hôn ông cao hứng làm một bài hát nói có những câu hài hước sảng khoái:
…..
Kìa những người mái tuyết đã phau phau
Run rẩy kẻ đào tơ còn mảnh mảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa lấp lánh,
Nhất toạ lê hoa áp hải đường. (1)
Từ đây đà tạc đá ghi vàng,
Bởi đâu trước lựa tơ chắc chỉ.
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ:
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam! (2)
…..
Xưa nay mấy kẻ đa tình
Lão Trần là một với mình là hai.
Càng già càng dẻo càng dai.
(1) Hoa lê trắng ở bên hoa hải đường đỏ
(2) Niên kỷ, cô dâu muốn hỏi tuổi đức lang quân/
Năm mươi năm trước tớ hăm ba!
****
Trong thời gian ông sống nhàn ở Đại Nại, bố chánh Hà Tĩnh là Hoàng Nho Nhã, lúc rảnh việc thường đến chùa cùng ông bàn luận văn chương thế sự. Thấy ông quá đỗi phong lưu, họ Hoàng tặng câu đối :
Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu
Phong lưu đáo lão thế nhân vô
(Sự nghiệp kinh người thiên hạ có
Phong lưu đến già thế gian không)
Hơn 50 năm sau, ông Phan Bội Châu lên chùa Đại Nại chơi, thấy đôi câu đối treo ở nhà Tổ, lấy làm lạ, mới hỏi sự tình. Sư cụ thuật hết đầu đuôi câu truyện cho nghe. Ông Phan lấy làm khoái trá, cho là một giai thoại phong lưu đệ nhất, liền làm một bài thơ hoài niệm, có hai câu:
Hà như Uy Viễn Tướng quân thú
Tuý ủng hồng nhi đáo pháp môn
(Làm thế nào được thú như Uy Viễn tướng quân
Lúc say mang cả ả đào lên cửa Phật)