ancai đã viết:
Kính thưa các anh chị,
Các anh chị có thế giúp tôi tìm bài thơ "Xe Trâu" của nhà thơ Kiên Giang.
email: ancai@juno.com
XE TRÂUChợ Quán đêm 9.10.63, Má tôi ngồi kể lại chuyện xe trâu gắn liền với quãng đời làm dâu, làm vợ, làm mẹ một cách khắc khổ.
Tôi đã lớn lên trên chiếc xe trâu ấy từ ngày má mới ra riêng chèo chống ở xứ người mướn đất điền chủ làm ruộng để tạo lập sự nghiệp.
Hình ảnh chiếc xe trâu với đôi bánh nặng nề lăn dài theo đường mòn xuyên qua đồng ruộng vào mùa khô đã lui vào ký ức.
Ngày thơ dại của tôi bú sữa mẹ trên xe trâu. Bây giờ tôi đau sót khi hình dung, hình ảnh người mẹ, tay bồng tôi, tay nắm dây vàm khiển chiếc xe cót két rên rỉ đi về đồng quê. Tôi đã bỏ làng bỏ xứ từ lúc làm nghề viết lách. Tôi không có dịp về làng cũ để tìm vết xe trâu, màu lá mạ, bông mướp, bông tràm, hình ảnh mẹ, tuổi đôi mươi.
Tất cả chỉ còn là kỷ niệm và vết đau. Tôi muốn được ôm ấp mãi kỹ niệm và vết đau ấy để nghiền ngẫm danh ngôn: “Trong vũ trụ có lắm kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt xảo nhứt vẫn là trái tim người mẹ”. Ngày nay người ta đã dùng máy cày để kéo lúa. Sự có mặt của máy móc trong việc kéo lúa đã làm giảm mức độ đổ mồ hôi và công khó nhọc của dân cày. Tuy nhiên tôi vẫn tôn thờ hình ảnh chiếc xe trâu thô sơ.
Tôi xin dâng mẹ tôi và bạn với thâm tình hình ảnh chiếc xe trâu.
Xe trâu cót két
Cót két xe trâu
Bánh xe nằng nặng in sâu lối mòn
Tay cầm vàm nhỏ
Tay nọ ẳm con
Nắng vùng xẻo đước (1)
Con trâu khát nước
Thở đốc từng cơn
Bánh xe nghiền nát cốt mòn
Nát thân không nát nổi hồn mẹ quê
Mồ hôi tưới khắp đường xe
Thân gầy sức yếu, đường về xa xôi.
Người mẹ nghèo sợ con cảm nắng
Lấy khăn rằn bông nửa mui xe
Con nằm khoanh ngủ trong lòng mẹ
Dưới áng mây lành mát bóng quê.
Xe trâu kéo lúa, chở con thơ
Lúa giống năm nay để tới mùa
Gieo mạ cho quằn bông lúa chín
Cho con no ấm, sớm nô đùa.
Con của má cũng là giống tốt
Mai sau con sẽ có gia đình
Nuôi con... sẽ biết công từ mẫu
Trọn kiếp làm dâu : kiếp khổ hình
Từ Đông-Hòa(2) má sang Đông-Thái(3)
Một chuyến sang đò: chuyến biệt ly
Giọt nước lìa nguồn sa bến đục
Bông tràm rơi trắng bước vu qui
Chín tháng con nằm trong bụng mẹ
Chắc nghe mẹ khóc lúc mang thai
Nên con của mẹ thành văn sĩ
Biết khóc từ khi chửa hiểu đời.
Gà mới gáy má vừa thức giấc
Một mình vo gạo ở cầu ao
Nấu cơm cho mấy mươi công cấy
Ngủ đứng ngoài sân tựa cổng rào
Em chồng năm đứa nhởn nhơ chơi
Khi mẹ đày thân trả nợ đời
Cơm nguội cá thiu chan nước mắt
Dầm mưa không mảnh áo chằm tơi
Ngày mẹ ra riêng về Xẻo Đước
Giang sơn vỏn vẹn: chiếc xuồng be
Cha bơi lái mẹ ngồi bơi mũi
Chèo chồng xứ người tìm bến quê
Mẹ đập ống ngày con sáu tuổi
Rước thầy về dạy chữ a, b
Còn cha phát đất ông điền chủ
Tiền học đóng bằng lúa mẹ giê.
Thầy giáo vỡ lòng làm quốc sự
Đến "Điền Trên"(4) ghé bước phiêu lưu
Nhà nghèo chữ nghĩa thơm mùi mực
Con nhớ muôn đời ông giáo Như(5)
Bông mướp trổ vàng dưới mái hiên
Giàu thêm chữ nghĩa, chẳng giàu tiền
Trâu già vẫn kéo xe trâu cũ
Nửa kiếp con mang nợ chủ điền.
Làng cũ sau ngày binh lửa dậy
Con không về nữa xóm Điền-Trên
Đông-Yên(6) làng cũ xa xăm quá
Mờ vết xe trâu bóng mẹ hiền.
Khi con bán chữ mua cơm áo
Tóc mẹ thúng bông rối mái đầu
Ngồi kể chuyện buồn đêm Chợ Quán
Quãng đời cay đắng, chuyện xe trâu.
Trời hỡi mẹ ơi con bất hiếu
Nửa đời, sự nghiệp trắng hai tay
Tại sao con chẳng đi ăn cướp
Cho mẹ cho con bớt đoạ đày.
Tại sao trời bắt làm thi sĩ
Khóc mướn thương vay mãi chuyện đời
Mà trái tim đau giàu cảm lụy
Bị đời gạt mãi mẹ hiền ơi!
Một chiếc xe trâu, bao hột giống
Đổi cho con một kiếp làm thơ
Nếu không có mẹ, thơ và mộng
Con chết còn hơn sống kiếp hờ
Mẹ bảo : "Mọi nghề đều quí trọng
Con ơi cứ sống cứ làm thơ
Bạc tiền danh vọng như mây nổi
Má vẫn gần con, dẫu xuống mồ"
-Kiên Giang-
(Chợ Quán đêm 9-10-63)
Chú thích:
(1) Xẻo Đước: Một con rạch ở làng Đông Yên
(2) Đông Hoà: Làng quê ngoại
(3) Đông Thái: Làng quê nội
(4) Điền Trên: Một xóm hẻo lánh khi song thân vừa ra riêng đến đây để lập nghiệp
(5) Giáo Như: thầy dạy vỡ lòng tên Như
(6) Đông Yên: Một làng ở quận An Biên (tỉnh Kiên Giang) cách quê nội, quê ngoại một ngày thuyền. Song thân đã tạo lập sự nghiệp tại làng này.“THI CA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1889 – 1965” Của Tác Giả Trần Tuấn Kiệt. NXB Sống Mới
"Mở cửa nhìn Trăng - Trăng tái mặt
Khép phòng đốt Nến - Nến rơi châu"