Từ một trình độ Hán học uyên thâm như thế, ông Nguyễn Huệ Chi (NHC) đi vào làm
Thơ văn Lý - Trần. Nói cho đúng, đây là một tập hợp văn bản công phu với công sức của nhiều người, nhưng lại in chữ giản thể. Ở đây không thể nói nhiều chuyện chung quanh cuốn sách này (Chẳng hạn, bản thảo do công lao to lớn của các cụ lão nho: Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình, có cả Nam Trân làm; công lao của “ông đồ Hỉ” (tên gọi thân mật GS Đỗ Văn Hỉ, một nhà Hán Nôm học cự phách) trong việc dịch tất cả những văn bản khó trong ấy, nhất là các văn bia cổ..., và đến chết “ông đồ Hỉ” vẫn uất hận khôn nguôi trong việc bị đè nén... Và thật sự thì cụ Nghè Đinh Văn Chấp, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Ngô Tất Tố... đã dịch phân nửa văn bản Lý - Trần rồi. Và chú thích, dịch... nhất là những vấn đề liên quan đến Phật học còn phải bàn. Nhưng đó không phải là chủ đích của bài báo này). Trong cuốn
Thơ văn Lý - Trần này, lẽ ra ông NHC chỉ là người biên soạn, biên tập..., nhưng đến tập II, quyển thượng thì ông lên làm chủ biên... Và quyển hạ, tập II, đến nay sau 40 năm từ khi in tập I, vẫn chưa ra. Thật oái ăm! Giờ tôi chỉ xin nói những chuyện “hai năm rõ mười” thôi.
Năm 1969 ở Sài Gòn, Tu thư Đại học Vạn Hạnh in cuốn (Tuệ Trung Thượng sĩ)
Ngữ lục do Trúc Thiên dịch. Khi biên soạn
Thơ văn Lý - Trần, ông NHC ghi “trong khi dịch thơ văn Trần Tung (tức Tuệ Trung Thượng Sĩ), chúng tôi có tham khảo bản dịch của Trúc Thiên, do Tu thư Đại học Vạn Hạnh ấn hành, 1969” (
Thơ văn Lý - Trần, t.II, quyển thượng, H., 1989, tr. 225).
Nhưng “tham khảo” như thế nào? Thôi không nói đến phần “tham khảo” văn xuôi, vì phải mất công đối chứng, chỉ nói về thơ thôi. Đối chiếu bản dịch thơ của ông NHC và của Trúc Thiên thì thấy: ngoài việc lấy lại vần, lấy chữ, lấy nguyên si một số câu; ông NHC “xuất nhập” một số ý, “biên tập” lại để thành bài của mình và rồi ký luôn tên mình, xoá mất tên Trúc Thiên vốn là người đầu tiên dịch bài thơ ấy.
Trường hợp các bài
Thế thái hư huyễn - Hoạ huyện lệnh,
Thị chúng,
Tặng Thuần Nhất pháp sư,
Thị đồ,
Chí đạo vô nan... đều là như vậy.
Bài
Thế thái hư huyễn, hai câu đầu ông NHC lấy nguyên si (chỉ khác Trúc Thiên dịch chữ phó là gởi, ông để nguyên là phó):
Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ màng gởi trọn giấc Nam kha.
(Trúc Thiên dịch, Ngữ lục, Sđd, tr.123)
Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ màng phó trọn giấc Nam kha.
(NHC dịch, Thơ văn Lý - Trần, t.II, quyển thượng, tr.250)
Hai câu cuối:
Thấy chăng đàn én lầu Vương Tạ
Nay hết vàng son lạc vạn nhà.
(Ngữ lục, Sđd)
Hãy xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay xuống làm thân với mọi nhà.
(Thơ văn Lý - Trần, Sđd, tr.250)
Theo ý tôi, câu dịch Trúc Thiên sáng tạo hơn, hay hơn, nhất là chữ vàng son, chữ lạc thật đắt, khi nhớ câu thơ Đường về Vương, Tạ của Lưu Vũ Tích: Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,/ Phi nhập tầm thường bách tính gia. Dịch thơ không phải dịch chữ, mà dịch cái hồn chữ. Ông NHC dựa vào câu thơ dịch của Trúc Thiên, sửa vài chữ cho là sát nghĩa; còn 4 câu giữa thì cũng chỉ xoay đi đổi lại mà thôi.
Bài
Hoạ huyện lệnh, bản dịch của Trúc Thiên mở đầu bằng hai câu:
Đã từng nối gót Tứ Minh Cuồng
Ưng mến Y Vương với Quỉ Vương.
thì bản NHC là như sau:
Từng phen nối gót Tứ Minh Cuồng
Nào phục Y Vương với Quỉ Vương.
Dựa vào vần cũ, bài cũ, “xuất nhập” một hai chữ rồi ký tên mình. Bài
Tặng Thuần Nhất pháp sư, bản dịch của Trúc Thiên mở đầu: Pháp thân tịch diệt sắc thân còn; bài Thị chúng mở đầu: Thôi tìm núi Thiếu với khe Tào, bản NHC cũng hoàn toàn là như vậy (trong khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch vần khác: Thôi tìm Thiếu thất với Tào khê); bài Đại đạo chí nan, Trúc Thiên dịch: Quay đầu, vặn óc luống bần thần, thì ông NHC đảo lại chút đỉnh: “Bần thần, vặn óc với quay đầu”, tính ra chỉ khác mỗi chữ với và luống.
Thế nào là dịch lại, là tham khảo? Trong việc dịch thơ, tuy cùng nguyên tác, các bản dịch có thể khác nhau xa, tuỳ từng người dịch trong quá trình chuyển tải vần điệu, chất thơ, ý tại ngôn ngoại… Đằng này là lấy của người, biên tập, chữa một số chỗ chứ đâu phải dịch?
Trường hợp này cũng xảy ra giữa ông NHC và bản dịch Ngục trung nhật ký của Nam Trân (1907-1967). Nam Trân từng dạy ông NHC ở Lớp Đại học Hán học (1965-1969) về thơ Đường - Tống, vừa là người lãnh đạo ông (cụ Cao Xuân Huy, Tổ trưởng, ông Nam Trân, Nguyễn Văn Hoàn, Phó tổ trưởng, ông NHC tổ viên). Lại là bậc tiền bối (Nam Trân sinh 1907, NHC 1938). Nam Trân Nguyễn Học Sĩ đậu Tú tài bản xứ tiếng Pháp thời Tây; nghiên cứu văn học Tây phương (cổ Hy - La); Hán học thì dịch thơ Đường - Tống, Kinh Thi, cổ văn… chữ tốt đến nhân sĩ Trung Quốc cũng vui lòng xin chữ và in thơ chữ Hán của ông trên tờ Thi san của Hội Nhà văn Trung Quốc. Ông lại là tác giả
Huế - Đẹp và Thơ mà Hoài Thanh nhận rằng thơ ông “biệt riêng thành một lối” (
Thi nhân Việt Nam). Nam Trân mất (1967), hơn chục năm sau, ông NHC đem ra “duyệt” lại bản dịch của thầy và bậc tiền bối đó. Ngoài mấy bản dịch mới hoàn toàn, còn thì, ông đã sửa chữa: 8 bài sửa 1 từ, 4 bài sửa 2 từ, 1 bài sửa 3 từ, 3 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 3 từ, 1 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 5 từ, 15 bài sửa từ 6 từ trong 3 câu trở lên. Chỉ sửa chữ, không sửa vần! Sửa có 1 chữ cũng ký tên mình vào! Thí dụ thì vô khối. Bài Dạ túc Long Tuyền, 3 câu trên gần như lấy lại nguyên văn, đến câu 4, Nam Trân dịch:
Mừng sáng nghe oanh hót xóm gần
(Cách lân hân thính hiểu oanh đề: Mừng nghe chim oanh bên láng giềng báo sáng) (Nhật ký trong tù, 1960, tr.66).
Ông NHC bèn chữa lại:
Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần
rồi ký tên mình bên cạnh. Đúng là “lợn lành chữa thành lợn què”! Câu thơ dịch của Nam Trân đã là tối ưu so với câu thơ nguyên tác, xuôi thuận, đẹp về tiếng Việt. Còn oanh sớm là oanh gì? Có oanh chiều, oanh tối không? HIỂU là sáng sớm, ở đây nó là trạng ngữ của oanh, con chim oanh hót vào buổi sáng sớm, tức là nó báo sáng, chứ oanh sớm thì tiếng Việt chẳng ai nói thế, viết thế cả. Bài
Chúc than (Hàng cháo), ông Nam Trân: quán rượu, ông NHC chữa tiệm rượu, ông Nam Trân: chỉ có cháo hoa…, ông NHC: nào món cháo hoa… thế là đứng tên! Bài thơ tả một quán nghèo trên đường, quán chỉ bán cháo hoa, muối trắng. Vậy cách dịch chỉ có thật đúng cái thần của câu thơ, còn nào món là có ý tán dương món ăn của quán ư!?
Tệ nhất là có bản chỉ chữa 1 chữ, các vị cũng đề tên mình vào bản dịch cũ. Mà chữa thế nào: Nam Trân: sách xưa - sách mới (cựu quyển, tân thư) nay sửa quyển xưa - sách mới (cho đúng nguyên văn, dịch theo chữ!), rồi hân hạnh đứng tên!
Hỡi ôi! Đúng là: “Thế sự người no ổi tiết bảy. Nhân tình ai ủ cúc mồng mười” (Nguyễn Trãi). Giá như ông Nam Trân còn sống chả biết ông nghĩ sao! Những học trò mà trước khi chết, ông than tiếc: “Đào lý phương viên thắng huỷ đa. Tiểu tâm bồi ủng nhị niên qua. Như kim vô lực truyền xuân sắc. Trường hướng thu phong thán nhất ta” (Tạm dịch: Cỏ lạ đào thơm mơn mởn tươi. Đem lòng vun xới mấy năm trời. Đến nay không sức truyền xuân sắc. Nhìn gió thu sang, một thở dài). Những học trò ấy đã vượt qua đầu ông, bất chấp tấm lòng và con chữ mà ông “bồi ủng”!
Kể ra hơi tàn nhẫn. Mà không chỉ có Nam Trân. Đến cụ Nguyễn Sĩ Lâm, Viện trưởng Viện Đông Y, một nhà Hán học cự phách, cẩn thận, chắc chắn, sâu rộng một tâm hồn thơ…, thầy chữ Hán chúng tôi ở lớp Hán - Nôm Sau Đại học (1972-1975) cũng bị NHC cướp chữ! Cả bài của cụ Nguyễn, 12 câu dịch, ông NHC thực ra chỉ chữa có 2 chữ: Vô ngần thành dữ dằn. Cụ Nguyễn dịch: “Giả bộ ác vô ngần” (Nguyên văn: Giả trang ác ngân ngân, nghĩa là: Lại giả bộ ác hầm hầm - Nhật ký trong tù, 1991, tr.26). Ông NHC chữa thành: Vờ làm bộ dữ dằn, chắc gì đã diễn đạt đúng nguyên tác: ngân ngân, ý hung ác, tàn nhẫn (Nhật ký trong tù, tr.27). Rõ ràng ác hầm hầm và dữ dằn mức độ khác nhau, chất lượng khác nhau. Nhưng thôi, chữa là chuyện của ông, nhưng ông lại ký tên mà là ký trước tên như là người dịch chính vào bài của cụ Nguyễn là cớ làm sao?
Nói cho đúng, NHC không chỉ chữa và ký tên chung. Ông cũng có dịch một số bài mới. Thà là như thế! Hay, dở cũng là bản dịch của mình. Văn chương “Tự kỷ văn chương, tha nhân thê thiếp” (Văn mình, vợ người). Nhân nói đến chuyện ứng xử với thầy cũ, tưởng cũng nên nhắc qua chuyện ông NHC và cụ Cao Xuân Huy. Ông lôi trong đống giấy tờ cũ ở nhà con rể cụ Cao Xuân Huy, soạn ra cuốn “Chủ toàn và chủ biệt - hai ngã rẽ của triết học Đông Tây”, đem in bên Tây, rồi đem về đổi tên thành “Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu” (1995), rồi dựa vào uy tín cụ Cao Xuân Huy, cuốn sách đem về Giải Thưởng Hồ Chí Minh cho Cụ. Người ngoài không biết, tưởng thế là học trò “trả nghĩa” thầy. Thực ra, động cơ lại khác. NHC lợi dụng các bài mà Cụ Huy chủ yếu viết từ 1956-1957. Cụ Cao Xuân Huy là người thấm nhuần Lão - Trang, biết rằng “Danh khả danh phi thường danh” (Cái danh có thể gọi được là danh là cái danh không hằng thường - Lão Tử). Cụ đâu có cần “danh”, cần giải thưởng! Cái hay cái lớn là không màng giải, không màng danh, lấy điều không tham làm giải: “bất tham vi vinh”. Chứ đi nhận giải, nhận tiền, còn đâu Lão - Trang, còn đâu Cụ Huy! Sau khi sách ra, học giới tranh biện, phê phán làm phiền cho Cụ khôn xiết, trong đó có ý kiến các ông Trần Thanh Đạm, Đông La, Trần Văn Đoàn… mà NHC đuối lý, không bảo vệ được. Chẳng hạn, xem Đông La: Những điều cần bàn của một công trình triết học - Đọc “Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu”, sách Biên độ của trí tưởng tượng. NXB Văn học, 2001, tr.191-205)…
Cũng tương tự, chuyện đối với thầy Thích Nhất Hạnh, không phải “thầy học”, mà là “thày chùa - thiền sư”. Năm 1974, trong “Việt Nam Phật giáo sử luận”, (T.I, NXB Lá Bối, Sài Gòn), Nguyễn Lang (tức thiền sư Thích Nhất Hạnh), trong chương 9: Tuệ Trung thượng sĩ (tr.269-298); dưới các mục: Diện Mục Tuệ Trung, Hoà Quang Đồng Trần, Đập Vỡ Thái Độ Bám Víu Vào Khái Niệm, Diệu Khúc Bản Lai Tu Cử Xướng, Đập Phá Quan Niệm Lưỡng Nguyên đã phát hiện ra Tuệ Trung mới chính là Trần Tung, con Trần Liễu, anh Trần Hưng Đạo (chứ không phải Trần Quốc Tảng, con Trần Hưng Đạo như Bùi Huy Bích viết trong Hoàng Việt thi tuyển). Thiền sư viết:
“Sách Hoàng Việt Văn Tuyển nói Tuệ Trung Thượng Sĩ là Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tảng, con lớn của Trần Hưng Đạo. Sự thực thì tuy Tuệ Trung Thượng Sĩ có tước hiệu là Hưng Ninh Vương, nhưng ông không phải tên là Trần Quốc Tảng cũng không phải là con Trần Hưng Đạo. Ông là anh cả của Trần Hưng Đạo, và tên ông là Trần Quốc Tung. Trần Nhân Tông, người khảo đính sách Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, trong bài Thượng Sĩ Hành Trạng in ở cuối sách có nói rõ “Tuệ Trung Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương và là anh của Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại Vương mất, hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩa phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương”.
Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là tước hiệu vua Trần Thái Tông ban cho Yên Sinh Vương Trần Liễu khi ông này mất. Đó là vào năm 1251. Cũng vào năm ấy Tuệ Trung Thượng Sĩ được 21 tuổi, và được phong tước Hưng Ninh Vương. Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm là con thứ 5 của Yên Sinh Vương Trần Liễu, tên là Thiều, là vợ của vua Trần Thánh Tông. Trần Hưng Đạo có một người con tên là Trần Quốc Tảng, nhưng tước hiệu là Hưng Nhượng Vương chứ không phải là Hưng Ninh Vương”.
Trong phần chú thích, Nguyễn Lang Thích Nhất Hạnh ghi rõ: Con cả của An Sinh Vương tên là Tung. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trong phần nói về vua Trần Minh Tông, có ghi lời bàn của Ngô Sĩ Liên như sau:
“Vua vốn là người hậu với thân thuộc trong họ, đối với người vai trên mà quý hiển lại càng tôn kính lắm. Phàm kẻ thần hạ người nào có tên trùng với những người ấy đều đổi cho tên khác. Người nào tên là Độ đổi thành tên Sư Mạnh vì tên Độ trùng với tên của Thượng Phụ (Trần Thủ Độ), tên là Tung thì đổi làm Thúc Cao, vì tên Tung trùng với tên của Ninh Hưng Vương con trưởng của An Sinh Vương”.
Có những bản in lầm An Sinh Vương thành An Ninh Vương. Ta chưa từng nghe có ai có tước hiệu An Ninh Vương bao giờ. Hưng Ninh Vương là con của An Sinh Vương Trần Liễu. Chữ sinh trong An Sinh Vương hẳn đã bị khắc lầm thành chữ Ninh chỉ vì trước đó đã có chữ ninh trong Hưng Ninh Vương (chú thích của Nguyễn Lang).
Như thế là đã rõ, là rất chi tiết và thuyết phục. Ông NHC trong
Thơ văn Lý - Trần (t.I, H., 1977, tr.113-115) cũng “tìm hiểu đích xác Tuệ Trung Thượng Sĩ là ai” (tr.114), đã viết lại những phát hiện của thiền sư Thích Nhất Hạnh mà xem như đó là phát hiện của chính mình. Đến bài viết “Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ thiền thời Lý - Trần”, Tạp chí Văn học (số 4-1977), ông NHC mới viết ở phần chú thích: “Cũng xin nói thêm là trong quá trình biên soạn bộ sách
Thơ văn Lý - Trần, chúng tôi đã phát hiện ra vấn đề này tương đối sớm, và đã có dịp trình bày sơ lược trong phần khảo luận đầu sách. Gần đây, có đồng chí mách cho biết: trong cuốn
Việt Nam Phật giáo sử luận (Lá Bối; Sài Gòn; 1974), Nguyễn Lang cũng có ý kiến giống chúng tôi về tác giả đích thực của Thượng Sĩ Ngữ Lục. Tuy nhiên, tìm đọc kỹ những điều ông Nguyễn Lang đã viết, chúng tôi vẫn thấy cần có một bài báo nói kỹ hơn về những tìm tòi của mình để bạn đọc tham khảo. Vì không những tài liệu và lập luận của chúng tôi có khác, mà cách đánh giá của chúng tôi đối với thơ văn Trần Tung cũng không giống Nguyễn Lang. Vả chăng, cho đến nay, mặc dầu đã có ý kiến sơ bộ của ông Nguyễn Lang, dư luận chung vẫn coi Trần Quốc Tảng là tác giả của
Thượng sĩ ngữ lục”.
Thực là khó tin! Sau khi Nam Bắc đã thống nhất, mà một bộ sách nghiên cứu nổi tiếng của một nhân vật nổi tiếng uyên bác như vậy và viết bằng tiếng Việt chứ phải tiếng Tây, tiếng U gì đâu, lại không đến một viện nghiên cứu chuyên ngành, lại đang làm thơ văn Phật giáo! (Còn nhớ, hồi ấy cán bộ Viện trong đó có NHC nườm nượp vào Nam, làm gì một cuốn tài liệu quan thiết đến như vậy mà NHC lại không có, không biết, đến nỗi “gần đây, có đồng chí mách cho biết, trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận (Lá Bối, Sài Gòn, 1974) Nguyễn Lang cũng có ý kiến giống chúng tôi về tác giả đích thực của Thượng Sĩ Ngữ Lục”. Tư liệu là không khí của nhà nghiên cứu, sao NHC phải đợi có người mách cho một chuyện tày đình như vậy! Dù sao, trong nghiên cứu, có một “luật tục”: ai phát hiện, phát minh ra cái gì, căn cứ vào năm họ đăng ký bằng tác phẩm được công bố. Thí dụ trong trường hợp này: phát hiện Tuệ Trung là Trần Tung đích xác thuộc về Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh), công bố tại Sài Gòn từ năm 1974; trước NHC (1977) đến ba, bốn năm trời. Lý đơn giản là như vậy. Nhưng thôi, chắc chắn là thiền sư Thích Nhất Hạnh chẳng để ý tranh giành tác quyền gì về chuyện đó, còn chúng ta, thì ai tin NHC cứ tin, cũng không mất gì! Cũng không có gì quan trọng lắm đâu một việc “phát hiện” như thế. Trần Nhân Tông chẳng đã nói rõ ràng trong “Thượng Sĩ Hành Trạng”, Tuệ Trung là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là tước hiệu của vua Trần Thái Tông ban cho anh ruột là Yên Sinh Vương Trần Liễu khi ông này mất… Thế thì “phát hiện này là của Trần Nhân Tông (1258-1308) chứ! Đã vậy, cái cách NHC nói về Nguyễn Lang lại thiếu hẳn sự khiêm tốn của một người đi sau. Ông cho rằng “cách đánh giá của chúng tôi đối với thơ văn Trần Tung cũng không giống Nguyễn Lang” (Bđd, tr.116). Không giống như thế nào? Ông NHC bảo là “thơ thiền của Trần Tung sẽ chỉ có một ý nghĩa nhất định với chúng ta chừng nào nó vẫn còn là thơ, là thơ của thế tục, hoặc là thơ có dính dáng ít nhiều đến thế tục, chứ chưa hoàn toàn là Thiền” (tr.127)…
Ơ hay! Thơ Thiền là thơ Thiền, còn có dính đến thế tục hay không là chuyện khác. Thế thơ Thiền của Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam (những bài thơ Thiền chân chính, thuần khiết nhất của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông chẳng hạn…) là không, còn ý nghĩa ư? Thực ra thì trong bài viết, để cố chứng minh mình độc lập có được phát hiện này, ông NHC đã tự bộc lộ nhiều cái chưa ngộ Thiền, chưa thông Phật học, chưa quán Tuệ Trung… Ông cho rằng: Tuệ Trung “tồn tại một nhà duy lý, ẩn náu bên trong một con người Thiền”, Tuệ Trung “yêu cầu một sự kiểm chứng bằng lý trí”… “một cái nhìn tương đối sáng và tỉnh, một ý thức thường trực làm “bản ngã”, một sự lựa chọn dứt khoát chỗ đứng ở cõi trần” (Bđd,
Tạp chí Văn học, 1977), “Trần Tung bẻ gãy và lật ngược lại nhiều mệnh đề Phật giáo xưa nay vốn lưu truyền!”, “Chủ nghĩa tương đối”, “tâm lý hư vô”, “coi tất cả là phi lý, đánh đồng cái chân và cái giả” (
Từ điển văn học, H., NXB Thế giới, 2004, tr.1812).
Những điều đánh giá này, có lẽ vào lúc NHC đang “xin vào Đảng” như ông Đông La nói, nên nó chứng tỏ một lập trường mác - xít giản đơn, thô thiển, áp đặt và đại ngôn! Thực ra thì Trần Tung là một nhà Thiền học (Thiền chứ không phải Phật giáo nói chung) muốn siêu việt lên trên tất cả những phạm trù nhị nguyên. Xem cách phân tích của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, một Thiền sư, một học giả, rất dung dị mà hiểu sâu và đúng về Tuệ Trung. Đó là điều chẳng có gì đáng nghi ngờ nhưng đây không phải chỗ để chúng tôi đi sâu phân tích. Cần nói là sau này, ông NHC lại tất tả đi in lại bộ
Việt Nam Phật giáo sử luận. Với con người như của NHC, đây là một động thái không đơn giản!
Kết luận lại, tôi chỉ nói một điều giản dị thôi: ông NHC tự cho rằng việc ông tìm ra thơ văn của nhà sư uyên bác, đồng thời là võ tướng có nhiều công lao dẹp giặc này là một cống hiến vô cùng quý giá” (
Thơ văn Lý - Trần, t.I, tr.113). Tôi hoàn toàn đồng ý, với một chú thích nhỏ: Từ năm 1969 ở Sài Gòn, Trúc Thiên tìm ra, đã dịch và công bố Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục (Đại học Vạn Hạnh xuất bản, in lại 1974), tức là phát hiện và dịch trước ông NHC khoảng mười năm, còn về văn bản chữ Hán của tác phẩm này thì ít ra từ đời Chính Hoà thứ 4 (1683) đến đời Thành Thái (1903), Phật giáo Việt Nam vẫn in lại.
Cho nên cái “cống hiến vô cùng quí giá” đó mà ông NHC nhận về mình cũng rất nên phải xem lại.
Bây giờ nói đến chuyện luận án Tiến sĩ “Giai nhân kỳ ngộ diễn ca trong văn học Duy Tân yêu nước đầu thế kỷ XX” của Trần Hải Yến (Viện Văn học - 2002) và bài “Giai nhân kỳ ngộ diễn ca, một thể nghiệm mới của Phan Châu Trinh về truyện thơ lục bát” của ông NHC in trên tạp chí Thời đại mới (Tạp chí nghiên cứu và thảo luận - một tạp chí mạng ở Hoa Kỳ (số 9, 11/2006). Bà Trần Hải Yến, như trong Thư mục tham khảo của luận án cho thấy, biết 4 ngoại ngữ: Hoa, Nhật, Anh, Pháp. Đây là một luận án do PGS-TS Phạm Tú Châu hướng dẫn và đã bảo vệ thành công xuất sắc. Đọc luận án thì thấy không có cái gì dính líu đến Giai nhân mà không được đề cập thấu đáo, sâu sắc, uyên bác, kỹ lưỡng, kể cả vấn đề thể loại “Truyện thơ lục bát”. Thế thì bà Trần Hải Yến còn lép cái nỗi gì để ông NHC rút ruột cái luận án ấy mà viết bài báo trên, rồi sau khi bị phản ứng, phải gỡ xuống và từ đó đến nay không thấy công bố ở trong nước, ngoài nước. Bà Trần Hải Yến cũng như bất cứ một nghiên cứu sinh nào khác, phải đề ở đầu luận án câu này “Xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nhận định và kết luận của luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác” và ký tên. Ông NHC có dám viết câu này khi viết bài báo nói trên không? Thế là cái bài báo ấy nó là “của em” chứ không phải “của anh”, “của thầy”.
Chữ Hán có thành ngữ: “Đoạt thai, hoán cốt”, nói về việc “rút ruột” và ém nhẹm, phi tang. Vì thế có hai câu tóm tắt chương này:
Tiểu xảo, “đoạt thai” Trần Hải Yến
Đại ngôn, “hoán cốt” Thích Thiền Sư
*
Bây giờ, xin qua chuyện chữ Tây của ông NHC để “giải lao” - thư giãn. Tôi không phải là chuyên gia tiếng Pháp, chỉ là học trò tiếng Pháp và tự học nên lẽ ra không nên nói chuyện này nhưng vì ông NHC lâu lâu viết bài cũng lại chưng ra một ít chữ Pháp bằng cách trích dùng một vài từ điển loại phổ thông để tỏ ra mình là người cũng rành tiếng Pháp. Một bà bạn ở Viện Văn học khi xưa còn cho biết “ông NHC làm Dự án về văn học Phần Lan (“Đường vào văn hoá Phần Lan” - 1966) để tỏ ra mình biết tiếng Pháp”. Một ông cụ vốn trước kia là học trò Trường Bưởi, sinh viên Luật Hà Nội, lại đã làm Hiệu trưởng trường Trung học Pháp - Việt, cho biết trong khi chú thích sách, ông NHC phải đi hỏi từng chữ Pháp cơ bản để chú thích. Không biết thì hỏi, đó là điều tốt. Nhưng thực tình, trình độ tiếng Pháp của ông NHC còn khá yếu. Chẳng hạn như nappe, theo lời học giả kia thì ông NHC cho là cái tấm vải trải giường (drap). Nappe trong Nam vẫn dùng nap, và bà xã tôi luôn nói “tấm nap bàn”, tức cái tấm khăn trải bàn, nó đã trở thành từ Việt (gốc Pháp) mất rồi, mà ông không biết.
Trong tập sách biên soạn Truyện ngắn Nam Phong (NXB KHXH, H., 1989), trang 131, NHC chú “tàu xúp-lê” là “tiếng Pháp: Souffler: thổi còi”. Chú giải như vậy là sai. Siffler mới là thổi còi, còn Souffler chỉ có nghĩa là như gió thổi (le vent souffler), thổi tắt ngọn nến (souffler la bougie). Souffler còn nhiều nghĩa nữa. Vậy hai chữ khác nhau chỉ chữ i và o. Chúng tôi xin đưa hai lệ chứng về chữ xíp-lê như sau:
“Nghe xíp-lê một chút rồi ngó thấy xe lửa rần rần chạy tới. Bé Hậu mừng rỡ nên đứng vỗ tay la om sòm” (Đoạn tình - Hồ Biểu Chánh).
“Tàu xíp-lê, kéo neo, xịch xịch chạy. Hai giờ đêm đến bến Hà Thành. Đèn điện sáng trưng, cô thông nom cũng choáng mắt” (Con người Sở Khanh - Phạm Duy Tốn).
Tiếng Pháp như thế thì chẳng có gì đáng tự hào vì ta vốn là nước thuộc địa của Tây xưa, một nước dùng tiếng Pháp, nhiều người tiếng Pháp giỏi lắm.
Ông NHC hầu như không làm công trình riêng. Ông chuyên đi “chủ biên” lấy bài nhiều người khác in, viết Lời giới thiệu rồi đề mình chủ biên (Trường hợp cuốn sách “Hoàng Ngọc Phách - đường đời và đường văn” (chuyên khảo, sưu tầm, tuyển chọn, 1966) sao lại đề là tác phẩm chính, in riêng của mình? (xem “Nhà văn hiện đại”, H., 2007, tr.150). Cuốn này chủ yếu là tác phẩm của cụ Hoàng Ngọc Phách, vậy phải đề tác giả là Hoàng Ngọc Phách, NHC sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu… mới phải.
Kể ra cũng lợi. Ngay cả cuốn “Từ điển văn học” khởi đầu do GS Đỗ Đức Hiểu chủ biên; GS Đỗ mất, ông đem ra thêm bớt, in lại (dịp khác ta sẽ bàn, các ông Đặng Tiến, Nguyễn Hữu Sơn và nhiều người khác đã có bài nhận xét sơ bộ, nhưng chưa thấy ai nói rõ điều này: ông đem cả nhà ông vào Từ điển, bất chấp họ có là nhân vật văn học hay không (có thể họ là sử, giáo dục, đạo đức học…, chứ quá ít dính đến văn), và ông thích ai thì đưa vào, không thích thì gạt (Chẳng hạn, tại sao ông lại gạt GS Hoàng Trinh vốn là người lãnh đạo của Viện mà lại đưa nhiều người có ít công trình hơn GS Trinh - vì “tư thù, tư oán” gì chăng? Ưng Quả, Bửu Kế, Nguyễn Khoa Vy… ở Huế sao không được đưa vào từ điển. Tại sao từ điển lại dừng ở những năm 60 của thế kỷ trước và thiếu không biết bao nhiêu người? Ông đã bộc lộ chủ tâm là ông muốn đưa vào cả những nhân vật văn học không hề đáng đưa một tí nào, nhưng không lọt. Ông “dương” người này, “ức” người kia. Làm từ điển phải có chuẩn, phải khoa học, vô tư, khách quan. Cuốn này còn cần phải thảo luận nhiều.
Lời tạm kếtÔng NHC đã dồn tôi vào thế phải lên tiếng, làm tôi mất rất nhiều thời gian và công sức. Nếu tôi phải “thất lễ” với ông, thì ông nên trách mình và nên thông cảm với người. Thật lòng tôi rất chán phải nói những chuyện u ám này. Đời thiếu gì trời xanh, hoa tươi, người tốt… mà phải chui vào cái cõi u minh và vạch cái tối tăm của người này, người kia, nói tắt là phải đi “dọn rác”. Không phải tôi muốn “hạ” ông NHC, để mình “cao” lên. Không, tôi vẫn chỉ là tôi thôi, “người là thế ấy, ta là thế thôi!” (Ngô khởi hiếu biện tai! Ngô bất đắc dĩ dã) (Mạnh Tử). Tôi cố ý tránh tranh biện với ông NHC từ mấy chục năm rồi. Một là, rất không rảnh. Hai là, nhớ lời dạy của cụ Hoài Thanh khi làm nhân viên của cụ ở Viện: “Việc lớn xem là nhỏ, việc nhỏ coi như không có”, và lời của anh Nguyễn Đình Thi, thủ trưởng một thời của tôi: “Đối xử tốt ngay cả với người xử xấu với mình”. Trong đời, phải “lòng chợt từ bi bất ngờ”, phải có “một tấm lòng” như lời ca Trịnh Công Sơn. Tôi nghe đầy tai về chuyện ông NHC, ông NHC xử với tôi ra sao, hẳn ông là người biết rõ nhất. Nhiều bạn bè Hà Nội nói lại với tôi và còn “phê” tôi: “Tại sao ông NHC nói xấu về ông như thế, còn ông lại đi nói tốt cho ông ấy?” Tôi chỉ cười: “NHC là người làm việc, làm được nhiều việc. Người như thế hiện không có nhiều. Còn chuyện cá nhân, thì bỏ qua đi, cho nó nhẹ người”. Tôi và nhiều bạn vẫn đánh giá tốt ông NHC ở những bài, những chỗ mà ông chính là ông, không cần “bành trướng” nâng lên “quân Tào có 30 vạn nói thặng lên thành 100 vạn”. Ông không cần phải lên gân ráng sức quá sức mình, nguy hiểm cho sức khoẻ. Tôi làm theo phương châm của các vị thầy, nên thừa biết là ông đã làm gì sau lưng chúng tôi (kể cả quay ngoắt 1800 trong vụ ông Nguyễn Quảng Tuân để thực hiện một ý đồ), chúng tôi cũng chẳng lạ và cho qua, để lo việc khác, thú hơn.
Nhưng nay thì ông đã đi quá xa về chính trị và học thuật, và ông chủ động tấn công, nên tôi buộc lòng phải lên tiếng tự vệ. Xin tạm kết đôi điều:
Về mặt chính trị: ông NHC muốn giương cờ làm “nhà dân chủ” ở Việt Nam, đó là sự chọn lựa của ông. Ông NHC cũng đã từng có kinh nghiệm về hoạt động này nhiều năm: kinh nghiệm Nội Bài, kinh nghiệm viết bài trên các mạng nước ngoài; gần đây lại đã dẫn đầu một đoàn quỳ lạy trước quan tài “nhà dân chủ” Hoàng Minh Chính, cũng như dẫn đầu đưa đơn về vụ Thơ Trần Dần… Đó là chuyện của ông. Nhưng, ông không nên vu cáo, chửi bới những người khác - khác chính kiến, khác cách làm, khác lộ trình… “Dân chủ” mà như thế sao được? Dân chủ trước hết là phải tôn trọng những người khác ý kiến với mình, chứ đâu lại thô bạo, thô lỗ như một kẻ vô học, vô đạo thế. Theo tôi, ông không phải là người dân chủ. Ông đã từng tham vọng học thuật một cách “bá đạo”, nay nhảy sang làm chính trị lúc cuối đời. Tôi mong ông hãy suy nghĩ lại cho kỹ, đừng quá nóng giận mà mất khôn. Làm chính trị chẳng dễ hơn làm nghiên cứu đâu, ông NHC ơi!. Còn về văn học thì chúng ta có lạ gì nhau. Dẫu sao xưa kia cũng từng là người cùng một tổ chuyên môn của một Viện, người cùng lớp Hán học, bây giờ tuy cư trú hai miền nhưng có lúc còn gặp mặt nhau, trong một Hội đồng chấm luận án tiến sĩ hay cuộc họp này họp kia, vậy vui vẻ là hơn anh NHC ạ. Đời ngắn lắm, anh đã “xưa nay hiếm” rồi đấy nhỉ, vậy thì “còn gặp nhau thì hãy cứ dzui” như một câu thơ dễ thương của bà Tôn Nữ Hỷ Khương mà anh chị em hay nhắc, việc gì mà thù hằn nhau, sân si nhau sâu sắc thế!. Đời rộng dài, biển học bao la, sức ta có hạn, lo tập trung mà làm việc, may ra còn được chút đỉnh ích lợi cho đời:
Ta chợt biết rằng vì sao ta sống -
Vì đất nước cần một trái tim
(Trịnh Công Sơn)
Miễn trái tim ấy là một trái tim nhân hậu, chứ không phải “nhất thế tử tâm hoài đại độc” như Nguyễn Du nói.
*
Có Nhà Nghiên cứu, nghe chuyện, có thơ rằng:
Đâu ngờ người ấy chẳng ra chi!
Vu cáo người ta phỏng ích gì?
“Dân chủ”, lập trường còn khuất tất,
Văn chương, chữ nghĩa đáng hoài nghi.
“Thiệp phiên” đâu phải là “qua bến”,
Síp - lê ắt hẳn phải dùng i.
Tây Tàu thôi thế nên siêng học,
Giáo sư đừng để bị khinh khi.
Tôi xin phụng hoạ, tấp tểnh “nối điêu” bài xướng như sau:
Hóng hớt, thâm thù có ích chi!
Nói năng hỗn ẩu có ra gì?
Dân chủ chớ nên dùng vu cáo,
Văn chương hẳn phải tránh hiềm nghi.
“Phên dậu” ngàn năm chưa hoá bến,
“Síp - lê” vạn thuở vẫn nguyên i.
Nhớ lời Phật dạy, sân si dứt,
“Bất kị bất cầu”, phúc có khi.
Mai Quốc Liên
Trà hoa hạng - Phú Nhuận
Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 2008