Tác giả cùng thời kỳ
Dịch giả nhiều bài nhất
Vũ Công Tự 武公字 (1855-1920) tự Kế Chi, hiệu Tinh Hải ngư nhân và Trúc Thôn, sinh ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nay là thành phố Nam Định, là chiến sĩ trong phong trào Cần Vương. Ông là con trai thứ ba của tiến sĩ Vũ Công Độ 武功度 (1805-?) nên tuy thi hương không đỗ, nhưng Vũ Công Tự vẫn được vào học trường Quốc Tử Giám ở Huế nhờ có chân ấm sinh. Đến khi anh rể là Trần Bích San làm tuần phủ Hà Nội, ông ra giúp việc cho anh rồi cho cha, khi Vũ Công Độ được cử làm Bố chính Bắc Ninh và Hải Dương.
Năm 1885, sau cuộc tấn công quân Pháp ở Huế thất bại, vua Hàm Nghi xuất bôn rồi ban dụ Cần Vương, Vũ Công Tự liền cùng với Bố chính về hưu là Bùi Công Kỳ, cử nhân Võ Huy Sĩ và một nhóm văn thân trong tỉnh chiêu mộ quân dũng, rồi tuyên bố chống Pháp đến cùng. Mãi đến năm 1906, Vũ Công Tự mới âm thầm trở về sống ở làng, khi mà các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp lần lượt đã bị đối phương tiêu diệt hết.
Thơ của Vũ Công Tự hiện còn lại 150 bài chữ Hán, được chép trong Lãi Minh thi thảo, Thính già thi thảo.
Vũ Công Tự 武公字 (1855-1920) tự Kế Chi, hiệu Tinh Hải ngư nhân và Trúc Thôn, sinh ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nay là thành phố Nam Định, là chiến sĩ trong phong trào Cần Vương. Ông là con trai thứ ba của tiến sĩ Vũ Công Độ 武功度 (1805-?) nên tuy thi hương không đỗ, nhưng Vũ Công Tự vẫn được vào học trường Quốc Tử Giám ở Huế nhờ có chân ấm sinh. Đến khi anh rể là Trần Bích San làm tuần phủ Hà Nội, ông ra giúp việc cho anh rồi cho cha, khi Vũ Công Độ được cử làm Bố chính Bắc Ninh và Hải Dương.
Năm 1885, sau cuộc tấn công quân Pháp ở Huế thất bại, vua Hàm Nghi xuất bôn rồi ban dụ Cần Vương, Vũ Công Tự liền cùng với Bố chính về hưu là Bùi Công Kỳ, cử nhân Võ Huy Sĩ và một nhóm văn thân trong tỉnh chiêu mộ quân dũng, rồi tuyên bố chống Pháp đến cùng. Mãi đến năm 1906, Vũ Công Tự…