Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Tố Hữu » Từ ấy (1946) » Xiềng xích
Đăng bởi Vanachi vào 29/01/2007 19:14, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 17/01/2021 10:57
Năm sáu ngày mệt xỉu
Thuốc làm khuây mấy điếu
Vài ba hớp nước trong
Suy nghĩ chuyện bao đồng
Vẫn không ngoài chuyện đói.
Đầu sàn, canh bốc khói
Chén cá nức mùi thơm
Lên hoạ với mùi cơm
Sao mà như cám dỗ!
Muốn ngủ mà không ngủ
Cái bụng cứ nằn nì:
“Ăn đi thôi, ăn đi!
Chết làm chi cho khổ!”
Nghe hắn thầm quyến rũ
Tôi đỏ mặt bừng tai:
“Im đi cái giọng mày
Tao thà cam chịu chết!”
Hắn nằm im đỡ mệt
Rồi tha thiết van lơn:
“Đời mới hai mươi xuân
Chết làm chi cho khổ!”
Hắn nói to nói nhỏ
Kể lể chuyện đê hèn
Tôi vẫn cứ nằm yên
Hắn liền thay chiến thuật:
“Thôi thì thôi, cứ vật
Nhưng phải ráng cầm hơi
Theo với bạn, với đời
Cho đến ngày kết quả.
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết ai ngờ?
Thế vẫn tròn danh dự
Không can chi mà sợ
Có hôi miệng hôi mồm
Còn có nước khi hôm
Uống vô là sạch hết!”
Lần này tôi thú thiệt:
Lời hắn cũng hay hay
Lý sự cũng đủ đầy
Nghe ra chừng phải quá!
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết, ai ngờ
Thế vẫn tròn danh dự
Nhưng mà tôi lưỡng lự
Suy nghĩ rồi lắc đầu
Đành không ai biết đâu
Vẫn không làm thế được!
Từ khi chân dấn bước
Trên con đường đấu tranh
Tôi sẵn có trong mình
Đôi mắt thần: chủ nghĩa.
Đã đứng trong đoàn thể
Bềnh vực lợi quyền chung
Sống chết có nhau cùng
Không được xa hàng ngũ
Không thể gì quyến rũ
Mua bán được lương tâm
Danh dự của riêng thân
Là của chung đồng chí
Phải giữ gìn tỉ mỉ
Như tròng mắt con ngươi
Đến cạn máu tàn hơi
Không xa rời kỷ luật!
Phải trải lòng chân thật
Không một nét quanh co
Không một bóng lờ mờ
Không một nhăn ám muội!
Bụng nghe, chừng biết tội
Từ đó hết nằn nì
Không dám thở than chi
Và tôi cười đắc thắng.
Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Diệp Y Như ngày 28/04/2009 04:14
Lao Bảo, tháng 11-1940
(Trong những ngày tuyệt thực)
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 06/11/2019 02:26
Từ chột nưa, người Huế đã chế biến nhiều món “đặc sản”. Món “nhà quê” chột nưa kho cá vụn đẫ nổi tiếng cả nước qua bài thơ Con cá, chột nưa của cố nhà thơ Tố Hữu.
Cây nưa, khoai nưa, thuộc giống môn (khoai nước, khoai sọ, bạc hà nước, dọc mùng), tên khoa học Arisaema erubescens họ Ráy (Araceae). Cây nưa ưa đất ruộng ẩm nên thường được trồng vào cuối hè và thu hoạch gần cuối đông khi mưa ở Huế bắt đầu dai dẳng.
Lá nưa nhiều khuyết chẻ như lá đu đủ. Chột nưa là phần thân ăn được và rất ngon. Củ nưa ăn rất ngứa nên sau khi thu hoạch, nông dân thường đem đi bảo quản khô trên giàn bếp để làm giống cho mùa sau.
Ở Huế, chỉ bốn vùng có thổ nhưỡng “đặc biệt”: huyện Hương Trà có làng Hương Sơ và La Chữ, huyện Quảng Điền có làng Phú Lễ và Niêm Phò (quê quán của đại tướng Nguyễn Chí Thanh và nhà thơ Tố Hữu) thì củ nưa trồng ở đây có thể ăn được và rất ngon vì hương vị độc đáo hơn hẳn các loại khoai sọ khác.
Người Phú Lễ cho nưa là đặc sản của làng mình, nên có bài thơ ca tụng:
Ai về Phú Lễ thì về,Chột nưa là phần chính để chế biến nhiều món ăn riêng của địa phương. Một món ăn rất bình dân nhưng “cực kỳ” Huế là chột nưa kho với cá vụn nước lụt mùa đông như cá cấn, cá mại, cá mương, cá sơn... tên địa phương gọi chung là cá cù (cù rủ nhau). Thừa Thiên - Huế là tỉnh có mùa đông mưa lụt đến thối đất, bù lại đây là mùa thu hoạch vụ nưa và dưới sông rạch lại có lắm cá cù. Món con cá chột nưa được người Huế nghĩ ra một cách sáng tạo để ăn với cơm nóng hổi trong cái ẩm lạnh cắt da cắt thịt của mùa đông.
Nưa khoai bộn bề, gạo vãi ngon cơm.
Gạo ngon cơm vừa đơm vừa dẻo,
Nưa ruột vàng vừa đẽo vừa ăn.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 06/11/2019 02:29
Trong cuốn hồi ký Nhớ lại một thời (NXB Hội Nhà văn, 2000), nhà thơ Tố Hữu (1920-2002) đã kể lại hoàn cảnh ra đời của bài thơ Con cá, chột nưa. Nhân việc một người tù cộng sản ở Nhà lao Lao Bảo bị bọn cai ngục đánh chết, những tù cộng sản khác đã tìm cách đấu tranh bằng hình thức tuyệt thực không ăn, không uống. Khi đó, Tố Hữu mới tròn 20 tuổi và ông thú nhận là lần đầu tiên trong đời mới hiểu thế nào là “đói đến chết”: “Cho đến ngày thứ mười thì chỉ còn xương với da nhăn nheo, hơi thở rất yếu, tim thoi thóp”. Vẫn theo lời kể của nhà thơ Tố Hữu, có điều lạ là dù kiệt sức nhưng đầu óc ông lại rất tỉnh táo và ông đã làm nhiều bài thơ trong thời điểm này. Như trong bài Trăng trối, ông ý thức rất rõ dấn thân vào cuộc đời cách mạng là phải chịu tổn thất hy sinh:
Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểuNhưng ông vẫn vững tin vào chiến thắng cuối cùng của cách mạng:
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề cận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa.
Rồi chiến thắng sẽ về ta, chiến thắngCuối cùng, những người tù ở Lao Bảo đã chiến thắng khi thực dân Pháp phải nhượng bộ yêu sách của những người tù do sức ép của dư luận.
Và tương lai, ta sẽ chiếm về ta!
Ăn đi thôi, ăn điNhà thơ liền phản ứng lại:
Chết làm chi cho khổ!
Im đi cái giọng màyNhưng cái bụng vẫn không thôi năn nỉ, đưa ra đủ mọi lý do nên ăn vụng chút cá, chút chột nưa để cầm hơi, đặc biệt là lý do:
Tao thà cam chịu chết!
Đời mới hai mươi xuânNgười trẻ nào cũng khát sống, “đánh” vào nhu cầu cần tồn tại để trải nghiệm, hưởng thụ cuộc sống thực là lý do rất đích đáng. Nhưng sau một hồi suy nghĩ, nhà thơ đã khước từ lời “dụ dỗ” của cái bụng bằng những câu thơ với lý lẽ sắc bén:
Chết làm chi cho khổ!
Tôi sẵn có trong mìnhSau 76 năm bài thơ ra đời, những câu thơ trong Con cá, chột nưa thể hiện “tinh thần thép” để giữ vững khí tiết người cộng sản chân chính. Những người cộng sản sở dĩ được dân tin, dân yêu bởi sự dấn thân, dám chiến đấu, hy sinh, giữ gìn đạo đức cách mạng. Lời nhắc nhủ của nhà thơ lớn Tố Hữu thật sự thấm thía:
Đôi mắt thần: Chủ nghĩa
Đã đứng trong đoàn thể
Bênh vực lợi quyền chung
Sống chết có nhau cùng
Không được xa hàng ngũ...
Phải giữ gìn tỉ mỉBên cạnh nội dung sâu sắc, khác với bài Trăng trối và các bài thơ cách mạng trong tập Từ ấy, Con cá, chột nưa được thể hiện dưới thể thơ năm chữ, có tính vần điệu cao, gần gũi với đồng dao. Từ yếu tố khách quan là nhà thơ đang bị tù, không hề có giấy bút để “đẽo gọt” câu chữ mà phải vừa làm thơ vừa tự ghi nhớ trong đầu bỗng dưng lại rất phù hợp với nội dung, tạo ra một bài thơ cách mạng độc đáo. Độc đáo cho đến kết bài với nụ cười đắc thắng trước cái chết, trước những cám dỗ vật chất tầm thường.
Như tròng mắt con ngươi
Đến cạn máu tàn hơi
Không xa rời kỷ luật.