惠崇春江晚景其一

竹外桃花三兩枝,
春江水暖鴨先知。
蔞蒿滿地蘆芽短,
正是河豚欲上時。

 

Huệ Sùng “Xuân giang vãn cảnh” kỳ 1

Trúc ngoại đào hoa tam lưỡng chi,
Xuân giang thuỷ noãn áp tiên tri.
Lâu hao mãn địa lô nha đoản,
Chính thị hà đồn dục thướng thì.

 

Dịch nghĩa

Bên ngoài bụi trúc, hoa đào nở hai ba cành,
Sông sang xuân, nước ấm lên, con vịt là biết trước tiên.
Cỏ lâu hao mọc đầy đất, mầm lau mới lên còn ngắn,
Chính là lúc loài lợn nước muốn lên ăn.


Đây là bài thơ đề tranh Huệ Sùng của tác giả. Huệ Sùng là một trong “Cửu tăng” đầu Tống, sở trường vẽ các loài chim như: ngỗng, vịt, cò, và cảnh bến lạnh mờ sương. Bài thơ làm năm Bính Dần (1086), tác giả đã trở về kinh sau 5 năm bị biếm trích tại Hoàng Châu, tâm sự vẫn như cánh nhạn lạc bầy, giữa đất kinh kỳ của sa mạc bắc phương đầy sương tuyết.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 2 trang (12 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Hoa đào bên trúc, vài ba cành,
Nước ấm sông xuân, vịt biết nhanh.
Đầy đất “lâu hao” mầm mới nhú,
“Hà đồn” loài lợn nước lên ăn.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tạ Trung Hậu

Đào vài ba nhánh ven bờ trúc
Vịt biết ấm dòng giỡn nước Xuân
Rợp đất cỏ hao lau lách mọc
Đúng mùa cá lợn ngược lên nguồn

Chưa có đánh giá nào
Trả lời

Trang trong tổng số 2 trang (12 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]