八月七日初入贛過惶恐灘

七千里外二毛人,
十八灘頭一葉身。
山憶喜歡勞遠夢,
地名惶恐泣孤臣。
長風送客添帆腹,
積雨浮舟減石鱗。
便合與官充水手,
此生何止略知津?

 

Bát nguyệt thất nhật sơ nhập Cám quá Hoàng Khủng than

Thất thiên lý ngoại nhị mao nhân,
Thập bát than đầu nhất diệp thân.
Sơn ức hỉ hoan lao viễn mộng,
Địa danh hoàng khủng khấp cô thần.
Trường phong tống khách thiêm phàm phúc,
Tích vũ phù chu giảm thạch lân.
Tiện hợp dữ quan sung thuỷ thủ,
Thử sinh hà chỉ lược tri tân?

 

Dịch nghĩa

Hai thứ tóc, người đi ngoài bảy nghìn dặm,
Một thân côi, thác đổ xuống mười tám ghềnh.
Núi nhớ Hỉ hoan đoạ đày viễn mộng,
Đất tên Hoàng khủng lệ khóc cô thần.
Gió ruổi khách cánh buồm mở rộng,
Mưa đầy sông thuyền nhẹ lênh đênh.
Góp sức quan thử làm thuỷ thủ,
Đời trôi xuôi bờ bến là đâu?


Bản dịch nghĩa trong Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng (Tuệ Sỹ, NXB Ca Dao, 1973).

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Vị Tế

Bảy ngàn dặm ấy tóc hoa râm
Mười tám thác ghềnh chỉ độc thân
Núi cũ Hỉ Hoan đày viễn mộng
Đất nay Hoàng Khủng khóc cô thần
Gió dài buồm rộng cùng đưa khách
Thuyền mỏng mưa dày chẳng ngưng chân
Sức quan nay cũng làm thuỷ thủ
Đời này đâu bến đỗ chung thân?

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Bảy nghìn dặm đến tóc hoa râm,
Thác đổ xuống ghềnh một chiếc thân.
Núi nhớ Hỉ Hoan đày viễn mộng,
Đất tên Hoàng Khủng khóc cô thần.
Cánh buồm mở rộng dùng đưa khách,
Thuyền nhỏ mưa đầy sông nước dâng.
Góp sức thử quan làm thuỷ thủ,
Đời trôi đâu bến đỗ chung thân?

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tạ Trung Hậu

Bảy nghìn dặm lẻ tóc hai phần
Mười tám ghềnh qua đơn chiếc thân
Núi nhớ Hỉ Hoan sầu viễn mộng
Đất kêu Hoàng Khủng khóc cô thần
Gió lùa tiễn khách buồm căng bụng
Mưa quét trôi thuyền đá bớt vân
Sẵn góp sức quan làm thuỷ thủ
Bến đời đâu dễ biết xa gần

Chưa có đánh giá nào
Trả lời