Chí thành thông thánh

Thế sự hồi đầu dĩ nhất không,
Giang sơn vô lệ khấp anh hùng.
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,
Bát cổ văn chương thuỵ mộng trung.
Trường thử bách niên cam thoá mạ,
Cánh tri hà nhật xuất lao lung?
Chư quân vị tất vô tâm huyết,
Thí hướng tư văn khán nhất thông.

 

Dịch nghĩa

Việc đời nhìn lại thấy chẳng còn gì,
Sông núi không còn nước mắt để khóc các bậc anh hùng.
Muôn dân làm tôi tớ dưới ách cường quyền,
Nhiều người đang ngủ mê trong giấc mộng văn chương bát cổ.
Suốt cả trăm năm chịu người mắng nhiếc,
Lại biết ngày nào mới thoát cũi sổ lồng?
Các anh chưa hẳn là người không tâm huyết,
Thử lấy thơ này mà xem từ đầu đến cuối.


Năm 1905, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đến Bình Định khi trên đường vào Nam để hoạt động cách mạng. Ở đó đang diễn ra một kỳ thi khảo hạch do quan tỉnh tổ chức với đề thi Chí thành thông thánh, đề phú Danh sơn lương ngọc lấy vận “Cầm hương ngọc tất sinh sơn”. Ba ông làm bài thơ Chí thành thông thánh và bài phú Danh sơn lương ngọc để nộp quyển dự thi với mục đích lợi dụng cuộc khảo hạch để đánh một tiếng chuông cảnh tỉnh đám sĩ phu mê muội chỉ lo miệt mài trong giấc mộng từ chương, không biết gì đến cái nhục mất nước phải đem thân làm nô lệ cho người. Hai bài đều ký chung tên là Đào Mộng Giác. Bài thi và bài phú gây chấn động trong giới nho sinh và không bao lâu khắp tỉnh Bình Định đều biết chuyện. Quan tỉnh cho do thám tìm tác giả nhưng tuyệt nhiên không ai biết ai, vì khi hai bài văn lọt vào kẻ cầm quyền thì ba ông đã rời khỏi Bình Định.

Bài thơ Chí thành thông thánh này được Phan Châu Trinh sao lại đủ trong di cảo Trung Kỳ dân biến tụng oan thuỷ mạt ký thuộc TL.18 nhưng không nhận mình làm tác giả. Trong Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử, Huỳnh Thúc Kháng lại bảo Phan Châu Trinh làm cả bài thơ và bài phú Danh sơn lương ngọc. Theo ý kiến thông thường thì Phan Châu Trinh là tác giả bài thơ nhưng vì bài thơ bị kết tội trong bản án Huỳnh Thúc Kháng nên ông không nhận. Trong di cảo chữ Hán của tác giả, bài thơ có mấy chữ khác với những bản đã lưu hành.

Theo lời kể của Quách Tấn trong Hương vườn cũ thì bài thơ là của Phan Chu Trinh, còn bài phú là do Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng làm. Sau khi rời Bình Định, ba nhà chí sĩ ghé nghỉ chân tại nhà người quen là ông ấm Nguyễn Tư Trực ở Nha Trang, có kể lại câu chuyện này với ông Trực và cũng dịp đó Huỳnh Thúc Kháng đã dịch Nôm cả hai bài. Ông Trực có chép lại hai bài dịch, nhưng đến năm 1908, Trần Quý Cáp bị án “Mạc tu hữu”, ông Trực bị liên luỵ nên gia đình đốt sách vở trong nhà gồm cả các bài này. Năm 1937, ông Trực với Quách Tấn cũng là chỗ quen biết đã kể lại câu chuyện này và đọc cho Quách Tấn bản dịch bài thơ của Huỳnh Thúc Kháng mà ông còn ghi nhớ được.


[Thông tin 4 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 2 trang (12 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Tạ Trung Hậu

Ngoảnh mặt nhìn đời thấy vắng không
Non sông khô ráo lệ anh hùng
Muôn dân nô lệ quân tàn bạo
Tám vế văn chương mộng viễn vông
Đã sống trăm năm trong tủi nhục
Mong rời một sớm khỏi cùm gông
Các anh ai cũng người tâm huyết
Xin gửi bài thơ tỏ nỗi lòng

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Gia Thoại

Thế sự thôi rồi một cái không,
Giang sơn hết lệ khóc anh hùng.
Muôn dân tôi tớ phường quyền mạnh,
Tám vế văn chương giấc mộng trong.
Cứ vậy chịu lỳ người mắng nhiếc,
Bao giờ ra khỏi cảnh chuồng lồng?
Các ngươi chưa dễ không tâm huyết,
Đọc đến văn này ắt suốt thông.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Trang trong tổng số 2 trang (12 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]