Đề Ấu Triệu bi đình

Sinh nê bất nhiễm: hoa quân tử;
Bão phác vô ngôn: thạch khả nhân.

Tâm khả huyền ư thiên nhật nguyệt;
Thân tằng giá dữ Việt giang sơn.


Năm 1926, khi Phan Bội Châu bị Pháp đưa về sống ở Bến Ngự, Huế. Năm sau, ông đã dựng lên một ngôi miếu nhỏ nơi góc vườn của mình. Ngôi miếu có khắc bốn chữ Hán “Ấu Triệu bi đình” và một tấm bia có khắc mấy dòng chữ Hán ở mặt trước và bản dịch bằng chữ quốc ngữ ở mặt sau, để làm nơi hương khói cho bà. Ngoài ra, ông Phan còn làm 4 cặp đối treo lên 4 cột miếu, gồm hai cặp đối chữ Hán và hai cặp chữ Nôm. Đây là hai cặp câu đối bằng chữ Hán.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Chương Thâu

Gần bùn không bẩn: hoa quân tử;
Ôm ngọc làm thinh: đá hiển nhân.

Tấm thân trót gả giang sơn Việt;
Tấc dạ soi chung nhật nguyệt trời.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Gần bùn chẳng nhiễm: hoa quân tử;
Ôm ngọc không lời: đá hiển người.

Tấc dạ soi chung trời nhật nguyệt;
Tấm thân giao phó Việt sơn hà.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời