Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 11/08/2020 10:56
Bà Trưng, Triệu mở dòng liệt nữ,
Chống ngoại xâm thanh sử ghi công.
Gần đây một nữ anh hùng,
Cũng là gốc Lạc trời Hồng nẩy hoa.
Người Thuận Hoá nếp nhà nho giáo,
Đinh phu nhân tiết tháo phi thường,
Tính trầm trọng, vẻ đoan trang,
Bút hoa ham tập, quyển vàng ham xem.
Chồng mất sớm một niềm thủ tiết,
Nước suy vong còn thiết chi thân.
Chống thù theo gót Mộc Lan,
Liễu bồ mà học lá gan anh hùng.
Buổi văn thân vẫy vùng hải ngoại,
Bà tìm ông Ngư Hải xin theo,
Việc đại nghĩa, dẫu hiểm nghèo,
Hết lòng báo quốc, quyết liều ngày xanh.
Lưới trinh thám tung hoành sau trước,
Lọt khỏi vòng khôn được phần nào.
Bà xin tình nguyện xông vào,
Ban liên lạc với kiều bào ngoại bang.
Kỳ Ngoại Hầu đã sang tới Nhựt,
Việc Đông Du, xếp đặt quy mô,
Cơ quan tiếp tế phải lo,
Tiền tài thơ tín phó cho mặc bà.
Từ Thuận Hoá lọt qua các bến,
Ghé Nghệ An rồi đến Hải Phòng,
Hải Phòng sang tận Hồng Kông,
Đảng viên đã cử một ông đi về.
Ngư Hải ông được bà ủng hộ,
Trong năm năm phục vụ nên công.
Nhờ bà nội ngoại giao thông,
Nền tài chính đảng bổ sung được nhiều.
Thương phận mỏng chí kêu chênh lệch,
Với lệnh trời không địch được sao?
Năm Thân bà bị tống lao,
Gặp kỳ tra tấn khổ bao cực hình.
Trương Như Cương ham danh hại nước,
Chốn pháp đình tìm chước dụ bà.
Rằng “Khôn thú thật thì tha,
Việc làm của đảng nói ra cho tường.
Không những được khoan hồng đối đãi,
Lại còn tư cấp giải thường cho.”
Nghe lời gan xét ruột vò,
Mà trong chí cả ai dò mưu sâu.
Bà tỏ vẻ gật đầu toại ý,
Miệng tươi cười “Vâng sẽ xin thưa,
Nhưng nay đã bị đau nhừ,
Nới cho gông xích xin thưa trường trình.
Thơ giấy bút đêm thanh tôi nghĩ,
Những ai ai xin kể rõ ràng,
Việc trong đảng tôi tỏ tường,
Hằng trăm đồng chí vẫn thường tới lui.
Nay biết chắc tha tôi tội chết,
Thời tôi xin khai hết đủ tên.”
Họ Trương tưởng thật mừng rên,
Bèn ban lệnh xuống tháo then gông cùm.
Trong phòng kín tối om lạnh lẽo,
Ngọn dầu hao vóc liễu xót xa.
Một mình một bóng châu sa,
“Phu quân đâu đấy, đón ta đến cùng!...”
Lấy nghiên mực mài dòng huyết lệ,
Thảo một trang chửi tệ quân thù.
Cắn tay lấy máu chép thơ,
Ba vầng tuyệt mạng đến giờ còn vang.
Sáng hôm sau cửa buồng vặn khoá,
Trương mừng thầm vội vã vào ngay.
Đến khi cửa mở kinh thay!
Thân kia đã gửi đoạn dây oan tình.
Trương nghĩ thẹn riêng mình thấp trí,
Sái hoả thiêu thi thể tờ cung.
Khen thay một tấm kiên trung,
Noi gương báo quốc soi chung muôn đời.