間詠其五

不問亡羊得馬翁,
靜摧易理騐窮通。
儘知世事濃還淡,
須信天機拙者公。
容分何須求分外,
識時尤貴酌時中。
寸心安得酬鈞造,
此爵原人付俾公。

 

Nhàn vịnh kỳ 05

Bất vấn vong dương đắc mã ông,
Tĩnh thôi Dịch lý nghiệm cùng thông.
Tẫn tri thế sự nùng hoàn đạm,
Tu tín thiên cơ chuyết giả công.
Dung phận hà tu cầu phận ngoại,
Thức thời vưu quý chước thời trung.
Thốn tâm an đắc thù quân tạo,
Thử tước nguyên nhân phó Tỷ công.

 

Dịch nghĩa

Chẳng hỏi ông mất dê hay được ngựa,
Tĩnh tâm tìm dịch lý để nghiệm lẽ cùng thông.
Đã thấu tỏ việc đời, hết nồng lại nhạt,
Mới tin cơ trời vụng ấy là khéo.
Hình dung thân phận chẳng cầu ở bề ngoài,
Người hiểu biết càng quý hơn ở lúc nâng chén rượu.
Tấc lòng muốn được báo ơn tạo hoá,
Chén này, người xưa từng gửi Tỷ công.


Tuyển từ Yên Đổ tiến sĩ thi tập (VHv.1864).


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Chẳng hỏi mất dê, được ngựa không?
Tĩnh tâm đọc Dịch, nghiệm cùng thông.
Đã hay thế sự nồng rồi nhạt,
Mới biết cơ trời vụng hoá khôn.
Thân phận hình dung đâu bởi ngoại,
Thức thời chén rượu lại là hơn.
Tấc lòng muốn báo đền ông tạo,
Đây chén người xưa gửi Tỷ công.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Được mất lôi thôi chẳng hỏi gì
Tĩnh lòng suy xét lẽ huyền vi
Nhạt nồng thế sự xưa nay vậy
Khôn dại cơ trời khó biết chi
Thân phận đâu cần phô dáng vẻ
Thức thời nên quí lúc nâng ly
Báo đền ông Tạo lòng xin tỏ
Chén rượu dâng người mãi khắc ghi

Chưa có đánh giá nào
Trả lời