Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Hán
Đăng bởi Vanachi vào 05/04/2006 09:39, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 08/07/2017 13:35
我年值八八,
我數逢九九。
嗟哉我德涼,
壽紀邁先考。
嗟哉我學淺,
魁然占龍首。
豈非先考齡,
留以錫爾父。
豈非先考名,
不做以留後。
平日無寸功,
俯仰已慚負。
足矣亦何求,
死葬勿淹久。
死幸得全歸,
葬幸得親附。
棺衾不可美,
只以斂足手。
具饌不可豊,
只以答奔走。
不可寫祝文,
不可為對句。
不可設銘旌,
不可題神主。
不可達門生,
不可訃僚友。
賓客不可招,
賵吊不可受。
此皆纍於生,
死者亦奚有。
惟以重吾過,
囂然眾多口。
惟於葬之日,
旗扁導前柩。
竽工八九人,
吹送列左右。
草草死葬完,
酹我以杯酒。
所得新敕憑,
封還納使府。
爰題某石碑,
皇阮故休叟。
Ngã niên trị bát bát,
Ngã số phùng cửu cửu.
Ta tai ngã đức lương,
Thọ kỷ mại tiên khảo.
Ta tai ngã học thiển,
Khôi nhiên chiêm long thủ.
Khởi phi tiên khảo linh,
Lưu dĩ tích nhĩ phụ.
Khởi phi tiên khảo danh,
Bất tố dĩ lưu hậu.
Bình nhật vô thốn công,
Phủ ngưỡng dĩ tàm phụ.
Túc hĩ diệc hà cầu,
Tử táng vật yêm cửu.
Tử hạnh đắc toàn quy,
Táng hạnh đắc thân phụ.
Quan khâm bất khả mỹ,
Chỉ dĩ liễm túc thủ.
Cụ soạn bất khả phong,
Chỉ dĩ đáp bôn tẩu.
Bất khả tả chúc văn,
Bất khả vi đối cú.
Bất khả thiết minh tinh,
Bất khả đề thần chủ.
Bất khả đạt môn sinh,
Bất khả phó liêu hữu.
Tân khách bất khả chiêu,
Phúng điếu bất khả thụ.
Thử giai luỵ ư sinh,
Tử giả diệc hề hữu.
Duy dĩ trọng ngô quá,
Hiêu nhiên chúng đa khẩu.
Duy ư táng chi nhật,
Kỳ thiên đạo tiền cữu.
Vu công bát cửu nhân,
Xuy tống liệt tả hữu.
Thảo thảo tử táng hoàn,
Lỗi ngã dĩ bôi tửu.
Sở đắc tân sắc bằng,
Phong hoàn nạp sứ phủ.
Viên đề mỗ thạch bi,
Hoàng nguyễn cố hưu tẩu.
Tuổi ta vừa tám mươi tám,
Số ta gặp vận dương cửu.
Than ôi đức ta kém!
Tuổi thọ lại hơn cha ta.
Than ôi, sức học ta nông cạn
Lại nghiễm nhiên chiếm đầu rồng.
Há chẳng phải tuổi của cha ta,
Lưu lại để cho ta sao?
Há chẳng phải danh của cha ta,
Không thành đạt thì để cho đời sau sao?
Suốt đời ta chẳng có chút công gì,
Cúi nhìn đất, ngửa nhìn trời đã lấy làm hổ thẹn.
Thế là đủ rồi, chẳng còn cầu gì,
Chết thì chôn đừng để lâu.
Chết may được toàn vẹn mà chết,
Chôn may được chôn gần mẹ cha.
Quan tài, khâm liệm, không nên đẹp,
Chỉ đủ gói kín chân tay thì thôi.
Cỗ bàn không nên làm to,
Chỉ để thết đãi người giúp việc.
Không được viết văn tế,
Không được làm câu đối,
Không được đặt minh tinh,
Không được đề thần chủ,
Không được đặt giấy báo cho học trò,
Không được cáo phó với bè bạn,
Không được mời khách khứa,
Không được nhận phúng viếng.
Những cái đó đều làm luỵ cho người sống,
Người chết cũng chẳng được gì.
Chỉ làm thêm nặng tội lỗi cho ta,
Ồn ào thêm nhiều miệng tiếng.
Duy có ngày cất đám,
Cờ biển rước đi trước quan tài.
Thợ kèn tám chín người,
Đi hai bên tả hữu thổi kèn đưa tiễn.
Chôn cất qua loa cho xong,
Rót xuống đất cho ta chén rượu.
Bằng sắc mới được ban,
Hãy gói lại đem nộp cho dinh quan Sứ.
Rồi đề bia đá ở mộ rằng:
“Ông già triều nhà Nguyễn về hưu đã lâu”.
Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 04/11/2013 09:31
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử ngày 08/07/2017 13:38
Kém hai tuổi xuân đầy chín chục,
Số sinh ra gặp lúc dương cùng;
Đức thầy đã mỏng mòng mong,
Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy.
Học chẳng có rằng hay chi cả,
Cưỡi đầu người kể đã ba phen;
Tuổi thầy tuổi của gia tiên,
Cho nên thầy được hưởng niên lâu dày.
Ấy thủa trước ông mày chửa đỗ,
Hoá bây giờ để bố làm xong.
Ơn vua chửa chút đền công.
Cúi trông thẹn đất ngửa trông thẹn trời.
Sống được tiếng trên đời trọn vẹn,
Chết lại gần quê quán hương thôn.
Mới hay trăm sự vuông tròn,
Ăn chơi đã trải chết chôn chớ hề.
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt,
Kín chân tay đầu gót thì thôi;
Cỗ đừng hậu lắm con ơi,
Hễ ai chạy lại khuyên mời người ăn.
Tế đừng có viết văn mà đọc,
Đối trướng đừng gấm vóc làm chi;
Minh tinh con cũng bỏ đi,
Mời quan đề chủ con thì chớ nên.
Môn sinh chẳng tống tiền đạt giấy,
Bạn với thầy cũng vậy mà thôi;
Khách con con chớ khuyên mời,
Lễ đưa điếu phúng con thời chớ thu.
Ấy chẳng qua bận cho người sống,
Chết đi rồi còn ngóng vào đâu;
Lại mang cái tiếng to đầu,
Khi nay bày biện khi sau chê bàn.
Cờ biển của vua ban ngày trước,
Lúc đưa thầy con rước đầu tiên;
Lại thuê một lũ thợ kèn,
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng.
Việc tống táng lăng nhăng qua quýt,
Chuốc cho thầy một ít rượu be;
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: “Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.
Gửi bởi Vanachi ngày 04/11/2013 09:35
Tuổi thầy quẻ bát thuần (đã hết),
Số thầy cũng quẻ hết (dương cùng).
Đức thầy cũng mỏng như không,
Mà thầy được thọ hơn ông những là...
Học vấn thầy chẳng qua nông cạn,
Đỗ được ghi lên bảng đầu rồng.
Tuổi thầy là tuổi của ông,
Để cho thầy hưởng, về cùng tổ tiên.
Danh tiếng ông cũng liền để lại,
Thầy làm nên cũng bởi ông cho.
Báo đền thầy chửa thể lo,
Trông lên, cúi xuống thẹn cho thân này.
Trở về, chết được toàn thây,
Lại còn được táng ở ngay quê nhà.
Thế là đủ kêu ca gì nữa,
Chết là chôn, chớ có để lâu.
Đồ khâm liệm chớ kỳ cầu,
Cốt là bọc kín gót đầu thì thôi.
Cỗ bàn không vẽ vời bày sắm,
Đủ mời người giúp đám thì thôi.
Không viết văn tế con ơi,
Không làm câu đối lôi thôi làm gì.
Minh tinh cũng phải bỏ đi,
Không đề thần chủ nọ kia thêm phiền.
Môn sinh thầy không nên cho gọi,
Bạn quan thầy báo với cũng không.
Không mời quan khách tây đông,
Những đồ lễ phúng trả không nhận vào.
Những thứ ấy vướng bao người sống,
Người chết rồi trông ngóng nỗi gì?
Thầy thêm tội nặng, tội gì?
Mai sau lắm kẻ cười chê luận bàn.
Cờ biển của vua ban ngày trước,
Lúc đưa thầy đem rước đầu tiên.
Lại thuê tám chín thợ kèn,
Thổi khúc đưa tiễn mỗi bên dăm người.
Chôn thầy việc đã xong xuôi,
Cho thầy một chén rượu thôi, rưới mồ.
Sắc bằng Phủ sứ mới cho,
Gói đem nộp trả, chẳng lo giữ gìn.
Bia trên mộ chỉ ghi lên:
“Ông già triều Nguyễn hưu” trên quê nhà.