Có nghề những chắc cậy chi nghề,
Chẳng hoá ra nghề lại hoá nghê.
Vạn sự bất như, danh cũng hổ,
Nhất văn vô hữu, nợ còn bê.
Ngựa xe những rắp phô trò mã,
Võng giá làm chi chớ ướt sề.
Giò ngược giò xuôi chi rách gấu,
Thà rằng ngồi tốt vuốt râu dê.


Bài thơ này gửi Nguyễn Công Trứ than về việc làm quan nghèo. Mỗi câu đều có tên một loài vật: chi, nghê, hổ, bê, mã, sề, gấu, dê.

Tương truyền, Nguyễn Quý Tân đỗ tiến sĩ, được bổ làm tri phủ Quốc Oai, nhưng chẳng lấy làm thích thú. Chán cảnh quan trường tù túng, Nghè Tân bèn bày một bữa đánh bạc thật to, sau đó bỏ cả ấn tín, quan tước, rời công đường đi ngao du, thường xuyên rơi vào cảnh túng thiếu. Một lần, thương bạn, Nguyễn Công Trứ xin cho Nghè Tân được bổ đi làm giáo thụ ở Bình Giang. Có lẽ vì nể bạn nên Nghè Tân miễn cưỡng nhận lời, nhưng vẫn tìm cách “gây sự” bằng cách sai con trai đem một bức thư cùng mũ áo, cờ biển tiến sĩ sang dinh cụ Trứ xin cầm lấy chút tiền làm lộ phí. Nguyễn Công Trứ mở thư xem thì thấy đó là một bài thơ Đường luật Than nghề, mỗi câu thơ có tên một con vật. Tổng đốc Trứ đọc xong tuy giận nhưng không nói gì, chỉ sai người lấy tiền, trả lại mũ áo cờ biển cho cậu con trai Nghè Tân mang về, và gửi kèm thêm bài thơ hoạ nguyên vận, mà số từ chỉ thú vật trong đó còn nhiều hơn những 3 con so với trong bài của Nghè Tân.

Khảo dị:
Có nghề mà lại cậy chi nghề,
Nghề thế ai ngờ lại hoá nghê.
Vạn sự bất như, thân cũng hổ,
Nhất văn vô hữu, nợ còn bê.
Công danh chỉ tổ đồ khoe mã,
Cờ biển còn hơn của ướt sề.
Bôn tẩu làm chi cho rách gấu,
Thà rằng ngồi đó vuốt râu dê.
Có nghề mà lại cậy chi nghề,
Nghề thế ai ngờ lại hoá nghê.
Vạn tội bất như, danh cũng hổ,
Nhất văn vô hữu, nợ còn bê.
Khoa danh coi cũng đồ khoe mã,
Cờ biển xem như của ướt sề.
Bôn tẩu làm chi cho rách gấu,
Thà rằng ngồi tốt vuốt râu dê.


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]